Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 23-06-2025 9:18pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

BS Đào Thục Hiền, BS Lê Thị Hà Xuyên
Nhóm Nghiên cứu Lạc nội mạc tử cung & Adenomyosis BV Mỹ Đức (SEAMD)
 

Hiện nay, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) là lựa chọn điều trị chính cho các bệnh nhân hiếm muộn do nguyên nhân lạc nội mạc tử cung (LNMTC). Tuy nhiên, LNMTC có ảnh hưởng đến kết cục chu sinh và sơ sinh như thế nào so với những người mắc các nguyên nhân hiếm muộn khác vẫn đang là một vấn đề cần nghiên cứu. Để trả lời câu hỏi, một nghiên cứu đoàn hệ được xây dựng từ nguồn liên kết dữ liệu nhằm điều tra kết cục sức khỏe của sản phụ được sử dụng các phương pháp hỗ trợ sinh sản, cũng như sức khỏe của con họ.

Bộ dữ liệu nghiên cứu bao gồm hồ sơ của tất cả các ca sinh (hồ sơ của mẹ và trẻ sơ sinh) ở New South Wales (NSW) từ năm 2009 đến 2017, được ghi nhận trong bộ dữ liệu chu sinh của NSW (PDC) liên kết với các hồ sơ sức khỏe: Các phương pháp điều trị hỗ trợ sinh sản (ART) (Cơ sở dữ liệu hỗ trợ sinh sản của Úc và New Zealand [ANZARD]), Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nhập viện (Hệ thống thu thập dữ liệu bệnh nhân nhập viện NSW [APDC]), Thuốc được cấp phát thông qua bảo hiểm y tế quốc gia Úc (Chương trình Phúc lợi Dược phẩm [PBS]).
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các ca đơn thai tại NSW (29.152 ca sinh từ 24.116 bà mẹ) trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2017, được thụ thai thông qua các chu kỳ ART sử dụng noãn tự thân. Tiêu chuẩn loại bao gồm các ca sinh từ chu kỳ ART sử dụng noãn/phôi hiến tặng, chuyển giao tử vào vòi trứng hoặc liên quan đến mang thai hộ (n = 789).

Bốn nhóm nguyên nhân hiếm muộn: LNMTC đơn thuần; LNMTC kết hợp với các nguyên nhân hiếm muộn khác; hiếm muộn không phải do LNMTC; và nguyên nhân hiếm muộn không được nêu rõ. Trong nhóm “LNMTC đơn thuần", loại LNMTC được xác định nếu người mẹ có hồ sơ nhập viện (APDC) bao gồm mã ICD10, N80.0–N80.9. Chẩn đoán sẽ được xếp vào chẩn đoán nghiêm trọng hơn theo thứ tự sau: LNMTC sâu (N80.2, N80.4 và N80.5) > LNMTC buồng trứng (N80.1) > LNMTC nông (N80.3) > các loại LNMTC khác (N80.0, N80.6, N80.8 và N80.9).
Các kết quả chu sinh được nghiên cứu bao gồm: sinh non (sinh trước 37 tuần), sinh rất non (sinh trước 32 tuần), nhẹ cân so với tuổi thai (SGA), lớn so với tuổi thai (LGA), nhập đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh, tử vong chu sinh (thai chết lưu hoặc tử vong sơ sinh xảy ra trong vòng 28 ngày sau sinh), tình trạng nhập viện vì bất kỳ lý do nào từ 1 tháng đến 2 tuổi.
Mối liên hệ giữa LNMTC và các kết quả chu sinh và sơ sinh được điều chỉnh theo các biến ngẫu nhiên: tuổi mẹ tại thời điểm sinh; người mẹ đã từng có ít nhất một lần mang thai trước đó từ 20 tuần tuổi thai trở lên; loại phôi (phôi tươi hay phôi đông lạnh); có thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) để thụ tinh hay không; giai đoạn phát triển của phôi được chuyển (phôi giai đoạn phân chia hay phôi nang); số lượng phôi được chuyển; có xảy ra hội chứng quá kích buồng trứng cần nhập viện trong chu kỳ ART dẫn đến sinh hay không; tiểu đường thai kỳ; tăng huyết áp thai kỳ; hút thuốc lá trong thai kỳ; chỉ số kinh tế xã hội theo khu vực cư trú của người mẹ; và năm sinh.

Kết quả: Trong số 29.152 ca đơn thai sau ART, 19,9% (5.806/29.152) là từ các bà mẹ được chẩn đoán mắc LNMTC. Trong số này, 23,8% (1.379/5.806) là từ các bà mẹ chỉ được chẩn đoán LNMTC đơn thuần, và 76,2% (4.427/5.806) là từ các bà mẹ mắc LNMTC kết hợp với các nguyên nhân hiếm muộn khác. Ba phần tư (21.795/29.152) số ca sinh là từ các bà mẹ không mắc LNMTC và 5,3% (1.551/29.152) là từ các bà mẹ có nguyên nhân không được nêu rõ.
So với nhóm "hiếm muộn không phải do LNMTC" và nhóm "LNMTC kết hợp với các nguyên nhân hiếm muộn khác", các ca sinh trong nhóm "LNMTC đơn thuần" có xu hướng được sinh ra từ cha mẹ trẻ hơn và là những người mẹ sinh con lần đầu. So với nhóm "hiếm muộn không phải do LNMTC", các bà mẹ trong nhóm "LNMTC đơn thuần" có số lượng noãn thu được ít hơn, ít sử dụng phương pháp ICSI trong điều trị ART dẫn đến kết cục có con. Nhóm "LNMTC đơn thuần" cũng có nhiều khả năng được chuyển đơn phôi, chuyển phôi tươi và chuyển phôi giai đoạn phôi nang. Các bà mẹ trong nhóm "LNMTC đơn thuần" cũng ít có khả năng mắc tăng huyết áp từ trước và tiểu đường thai kỳ, và ít bị tiền sản giật hơn so với nhóm "hiếm muộn không phải do LNMTC”. Các mô hình điều chỉnh chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm nguyên nhân hiếm muộn về nguy cơ sinh rất non, nhẹ cân so với tuổi thai (SGA), thai lớn so với tuổi thai (LGA), nhập đơn vị chăm sóc tích cực sơ sinh, tử vong chu sinh và nhập viện sơ sinh. So với nhóm "hiếm muộn không phải do LNMTC", nhóm LNMTC sâu có nguy cơ sinh non (aRR, 1,75; KTC 95%, 1,12–2,75) và nhẹ cân so với tuổi thai (SGA) (aRR, 1,58; KTC 95%, 1,05–2,37) cao hơn đáng kể. Tuy nhiên, sự khác biệt rủi ro điều chỉnh (aRDs) tương ứng (KTC 95%) 6,0% (-0,2% đến 12,1%) và 5,3% (-0,6% đến 11,1%) thiếu ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, các ca sinh trong nhóm LNMTC buồng trứng (n = 258) ít có khả năng bị thai to so với tuổi thai (LGA) (Bảng 2).



Mặc dù có sự không đồng nhất trong các bằng chứng hiện có, nhưng có thể có nguy cơ cao hơn về tình trạng làm tổ bất thường và hình thành nhau thai bất thường ở phụ nữ mắc LNMTC. Điều này có khả năng dẫn đến tăng nguy cơ sẩy thai, và nhau tiền đạo và/hoặc nhau cài răng lược cùng với những thay đổi mạch máu liên quan dẫn đến giới hạn tăng trưởng thai nhi và cân nặng khi sinh.

Điểm mạnh của nghiên cứu này bao gồm cỡ mẫu lớn và liên kết dữ liệu toàn diện với điều trị hỗ trợ sinh sản, dữ liệu chu sinh, sinh nở, tử vong, nhập viện và hồ sơ dược phẩm. Do yêu cầu tất cả các chu kỳ ART phải được báo cáo cho ANZARD ở Úc và New Zealand, có thể giả định rằng việc xác định được đầy đủ các điều trị ART.
Hạn chế của nghiên cứu là các nguồn dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này ghi nhận các chẩn đoán LNMTC bằng các tiêu chí khác nhau, điều này có thể chỉ ghi nhận các biểu hiện nghiêm trọng hơn của LNMTC. Có thể tồn tại nguy cơ chẩn đoán sai LNMTC do phương pháp nghiên cứu. Việc phân loại sai có thể dẫn đến đánh giá thấp mức độ ảnh hưởng của mối liên hệ và hạn chế khả năng khái quát hóa các phát hiện này đối với những phụ nữ có triệu chứng LNMTC. Bệnh tuyến cơ tử cung (adenomyosis) không được thu thập trong ANZARD, và ngày càng có nhiều bằng chứng cho adenomyosis, đặc biệt khi kết hợp với LNMTC, có thể có ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ thành công của thai kỳ ART và các kết cục chu sinh. Mặc dù các phát hiện của nghiên cứu gợi ý mối liên hệ đáng kể giữa LNMTC sâu và sinh non cũng như nhẹ cân so với tuổi thai (SGA), nhưng những kết quả này cần được diễn giải một cách thận trọng do cỡ mẫu nhỏ trong nhóm thai phụ này và những hạn chế về độ mạnh thống kê. Các nghiên cứu lớn hơn, toàn diện hơn là cần thiết để xác nhận những phát hiện này và hiểu rõ hơn về các rủi ro liên quan đến các kiểu hình LNMTC khác nhau trong các ca sinh được thụ thai bằng ART.

Tóm lại, nghiên cứu liên kết dữ liệu dựa trên quần thể lớn này cho thấy kết quả chu sinh và sơ sinh nhìn chung tương đương đối với trẻ sơ sinh được thụ tinh bằng ART từ các bà mẹ mắc LNMTC đơn thuần so với các nguyên nhân hiếm muộn khác. Tuy nhiên, một phân tích thứ cấp xem xét đến kiểu hình LNMTC cho thấy rằng phụ nữ có tiền sử LNMTC sâu có nguy cơ cao hơn về sinh non và nhẹ cân so với tuổi thai (SGA) so với hiếm muộn không do LNMTC. Các bác sĩ lâm sàng nên nhận thức được những rủi ro tiềm ẩn này. Những phát hiện này cần được xác nhận bằng các nghiên cứu lớn hơn xem xét cụ thể các kiểu hình LNMTC.

Nguồn: Zhang X, Chambers GM, Venetis C, Choi SKY, Gerstl B, Ng CHM, Abbott JA; Perinatal and infant outcomes after assisted reproductive technology treatment for endometriosis alone compared with other causes of infertility: a data linkage cohort study. Fertil Steril. 2025 May;123(5):846-855. Published online December 12, 2024. Doi: 10.1016/j.fertnstert.2024.12.007.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK