Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 13-04-2025 2:20pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
 
Xã hội ngày càng phát triển với sự thay đổi mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và công nghệ, tạo ra những cơ hội và thách thức mới. Một trong những thay đổi đáng chú ý là xu hướng phụ nữ ngày nay tập trung vào sự nghiệp, tạo dựng sự độc lập tài chính và nâng cao chất lượng cuộc sống. Điều này dẫn đến sự thay đổi trong quyết định về thời điểm sinh con, khi tỷ lệ sinh con muộn và độ tuổi của các bà mẹ ngày càng tăng lên. Sự thay đổi này không chỉ phản ánh sự phát triển của xã hội mà còn gây ra những vấn đề lớn trong ngành hỗ trợ sinh sản. Đặc biệt, chất lượng của noãn có sự liên quan trực tiếp đến độ tuổi của người mẹ và tình trạng lệch bội của phôi, điều này làm giảm tỷ lệ thành công trong việc sinh con, đặc biệt là đối với phụ nữ trên 40 tuổi. Với xu hướng này, việc sinh con muộn đã trở thành một thách thức đối với những phụ nữ muốn có con nhưng gặp khó khăn do chất lượng noãn suy giảm. Những thay đổi trong quá trình sinh lý của người phụ nữ khi tuổi tác tăng lên khiến cho chất lượng noãn giảm, đồng thời khả năng mang thai thành công cũng giảm dần. Đây là một thách thức lớn đối với ngành hỗ trợ sinh sản, đòi hỏi những phương pháp và công nghệ tiên tiến hơn để giải quyết vấn đề này. Một trong những giải pháp hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề này là việc sử dụng noãn hiến tặng. Khi phụ nữ lớn tuổi gặp khó khăn trong việc thụ thai vì chất lượng noãn suy giảm, họ có thể lựa chọn phương pháp sử dụng noãn của người hiến tặng. Việc hiến tặng noãn đã trở thành một phương pháp phổ biến và có hiệu quả cao trong việc hỗ trợ sinh sản cho những phụ nữ không thể thụ thai bằng noãn của chính bản thân mình. Noãn hiến tặng không chỉ giúp cải thiện tỷ lệ thành công của quá trình thụ tinh ống nghiệm mà còn là giải pháp đáng tin cậy cho những bệnh nhân gặp phải các vấn đề về sinh sản như suy buồng trứng nguyên phát hoặc thất bại thụ tinh ống nghiệm nhiều lần. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đông lạnh – rã đông, trong đó thủy tinh hóa là một quy trình quan trọng, đã giúp việc hiến tặng noãn trở nên dễ tiếp cận hơn. Việc đông lạnh noãn giúp bảo quản noãn trong thời gian dài, tạo ra các ngân hàng noãn đông lạnh từ những người hiến tặng, từ đó cung cấp nguồn tài nguyên đáng tin cậy cho những phụ nữ cần sử dụng noãn từ người hiến tặng. Phương pháp này không chỉ giúp giải quyết vấn đề về chất lượng noãn mà còn giảm bớt gánh nặng cho những phụ nữ lớn tuổi mong muốn làm mẹ. Mặc dù rõ ràng là noãn từ những phụ nữ trẻ và người hiến tặng có thể cải thiện tỷ lệ thành công của chu kỳ thụ tinh ống nghiệm, tuy nhiên, tác động của quá trình lão hóa tử cung ở phụ nữ trên 40 tuổi vẫn là một vấn đề cần được chứng minh. Việc này đòi hỏi những nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa độ tuổi của người mẹ và kết quả sinh sản, cũng như cần phát triển các phương pháp hỗ trợ sinh sản toàn diện hơn để cải thiện tỷ lệ thành công cho những phụ nữ lớn tuổi. Như vậy, dù việc hiến tặng noãn mang lại nhiều cơ hội cho những phụ nữ gặp khó khăn trong việc sinh con, nhưng nó cũng đồng thời đối mặt với những thách thức về lão hóa tử cung và các yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
 
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá mối tương quan về tỉ lệ trẻ sinh sống, kết quả mang thai và tuổi của người mẹ ở những bệnh nhân từ 40 đến 55 tuổi đang trải qua chu kỳ hiến tặng noãn
 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện ngày 1 tháng 1 năm 2015 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, trong 1660 bệnh nhân ≥ 40 tuổi đã có một chu kì chuyển phôi sử dụng noãn từ người hiến tặng.
Tiêu chí nhận bao gồm: tất cả các chu kì chuyển đơn phôi và có độ dày nội mạc tử cung ít nhất là 7 mm trước khi chuyển.
Tiêu chí loại trừ bao gồm: những bệnh nhân có dị tật tử cung như u cơ trơn, u xơ dưới niêm mạc, hội chứng Asherman và dính tử cung.
Phần lớn các phôi nang được chuyển được xếp loại là 3BB hoặc tốt hơn vào ngày 5 và ngày 6 dựa trên tiêu chí Gardner. Một số ít phôi nang được chuyển với phân loại C nếu không có phôi có phân loại tốt hơn để chuyển, tất cả bệnh nhân được chia thành 3 nhóm:
  • Nhóm 1: từ 40 – 44 tuổi: 969 bệnh nhân (chiếm 58,37%)
  • Nhóm 2: từ 45 – 49 tuổi: 607 bệnh nhân (chiếm 36,57%)
  • Nhóm 3: ≥ 50 tuổi: 84 bệnh nhân (chiếm 5,06%)
 
Kết quả:
- Không có sự khác biệt về tuổi của người chồng và chỉ số BMI giữa các nhóm. Đối với noãn của người hiến tặng, phần lớn có nguồn gốc từ những người hiến tặng ẩn danh và có nhiều noãn hiến tặng đông lạnh hơn đáng kể so với noãn tươi trong cả ba nhóm (95% so với 5%, P = 0,024).
- Tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm tuổi 45 – 49 thấp hơn so với nhóm tuổi 40 – 44 (P = 0,023). Đối với nhóm tuổi ≥ 50, tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê. Đối với tỷ lệ thai kỳ sinh hóa và sẩy thai) tương tự nhau giữa nhóm tuổi 45–49 và ≥ 50 tuổi so với nhóm 40 – 44 tuổi.
- Có 702 bệnh nhân chuyển đơn phôi và sinh đơn thai, trong đó có 438 bệnh nhân ở nhóm tuổi 40 – 44, 235 bệnh nhân ở nhóm tuổi 45 – 49 và 29 bệnh nhân ở nhóm tuổi ≥ 50. Khi so sánh về kết quả chu sinh, cân nặng của trẻ khi sinh trung bình là 3257 ± 597,58g ở nhóm tuổi 40 – 44, 3210 ±557,1g ở nhóm tuổi 45 – 49 và 2903 ± 613,38g ở nhóm ≥ 50 tuổi có sự khác biệt ở 3 nhóm, với cân nặng khi sinh thấp hơn được thấy ở nhóm tuổi lớn hơn (45–49 và ≥ 50 tuổi so với 40–44 tuổi) (P = 0,004). Ngoài ra, tỷ lệ sinh đủ tháng so với sinh non và sinh thường so với sinh mổ không khác biệt.
 
Kết luận: Trong các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm, mặc dù chất lượng noãn là yếu tố quan trọng quyết định kết quả điều trị, nhưng yếu tố lão hóa tử cung cũng cần được đánh giá và xem xét. Ngay cả khi sử dụng noãn từ người hiến tặng, tuổi của người mẹ vẫn ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống và kết quả chu sinh. Điều này rất quan trọng để tư vấn cho bệnh nhân khi thực hiện thụ tinh ống nghiệm với noãn hiến tặng. Hơn nữa, với sự phát triển của kỹ thuật thủy tinh hóa, khả năng bảo tồn khả năng sinh sản được cải thiện thông qua việc đông lạnh noãn, nhưng yếu tố lão hóa tử cung vẫn là yếu tố cần tư vấn, đặc biệt khi ngày càng có nhiều bệnh nhân quay lại sử dụng noãn tự thân sau nhiều năm đông lạnh noãn.

Tài liệu tham khảo: Sabbagh Riwa, Meyers Alison, Korkidakis Ann, Heyward Quetrell, Penzias Alan, Sakkas Denny, Vaughan Denis, Toth Thomas, Pregnancy outcomes with increasing maternal age, greater than 40 years, in donor oocyte cycles, Human Reproduction, 2025;, deaf044, https://doi.org/10.1093/humrep/deaf044.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025

Năm 2020

Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK