Tin tức
on Monday 13-12-2021 10:38am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH.Phạm Ngọc Đan Thanh
IVFAS- Đơn vị Hỗ trợ Sinh sản An Sinh, Bệnh viện An Sinh
Phôi lệch bội (bất thường số lượng nhiễm sắc thể) là nguyên nhân chính dẫn đến vô sinh và thất bại trong điều trị hiếm muộn. Các tế bào lệch bội được chứng minh có liên hệ đến độ tuổi của cặp vợ chồng. Việc thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A) bằng công cụ giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) trên một số tế bào lá nuôi phôi (TE) có thể đánh giá tình trạng lệch bội hay nguyên bội của phôi. Giá trị lâm sàng của PGT-A đã được thảo luận trong thời gian dài, một số nghiên cứu cho thấy chuyển phôi có kết quả nguyên bội bằng sinh thiết TE làm tăng đáng kể tỉ lệ có thai và tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi bệnh nhân, đồng thời giảm nguy cơ sảy thai trong thai kỳ. Phôi khảm được định nghĩa là hiện tượng trong cùng một phôi, có hai hay nhiều phôi bào có kiểu gen khác hoàn toàn so với số phôi bào còn lại. Khác với trường hợp lệch bội hoàn toàn, hiện tượng phôi khảm gây ra nhận định dương tính hay âm tính giả, từ đó đưa ra lựa chọn sử dụng phôi sai, dẫn đến thất bại điều trị cho bệnh nhân. Với sự phát triển ngày nay của kỹ thuật NGS, độ nhạy trong phát hiện khảm đã tăng cao, cung cấp định lượng chính xác hơn về sự thay đổi số bản sao chép trên mẫu TE. Một số trung tâm đã báo cáo những trường hợp sinh sống khoẻ mạnh sau khi chuyển phôi khảm. Tuy nhiên, những nghiên cứu này đồng thời cho thấy phôi nang có hiện tượng khảm có tỉ lệ làm tổ kém hơn và tỉ lệ sẩy thai cao hơn so với phôi nguyên bội hoàn toàn.
Kỹ thuật nuôi cấy phôi kết hợp camera quan sát liên tục (TLM) trong thực hành IVF đã tạo nhiều thuận lợi trong điều trị IVF. Sự kết hợp giữa thông số động học cùng kết quả sinh thiết phôi cho thấy kết quả chính xác hơn trong dự đoán phôi nguyên bội hay lệch bội. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phôi lệch bội có thông số động học sai biệt so với phôi bình thường, một số nghiên cứu chỉ ra thời điểm từ nguyên phân đầu đến lần hai biểu hiện rõ nhất sự khác biệt này với chỉ số (t3-t2) và (t4-t6). Các bất thường nguyên phân là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng khảm ở phôi giai đoạn phân chia sớm. Do đó, việc kết hợp thông số động học và PGT-A giúp mở ra tiềm năng to lớn trong việc phát hiện phôi khảm và có kết quả điều trị tốt hơn.
Mục tiêu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp kết quả động học phân chia của phôi được xếp loại dựa trên tỉ lệ khảm của phôi.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện trên 1,511 phôi từ 424 chu kỳ thực hiện ICSI sử dụng hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp camera quan sát liên tục (TLM). Phân tích 106 phôi khảm. Trong quần thể nghiên cứu, 52,1% phụ nữ trên 35 tuổi (221/424), 11,8% phụ nữ thất bại làm tổ (50/424) và 8,7% là do yếu tố nam (37/424) được chỉ định tiến hành PGT-A. Thực hiện sinh thiết trên phôi nang ngày 5 với khoang phôi đã nở rộng hoàn toàn. So sánh đặc điểm nhiễm sắc thể, hình thái và thông số động học của phôi nang được cho là nguyên bội, lệch bội, phôi có tỉ lệ khảm thấp (30% đến <50%) và tỉ lệ khảm cao (50% đến <70%).
Kết quả
Trong quần thể nghiên cứu thực hiện PGT-A, phôi nguyên bội là 45,8% (692/1511), tỉ lệ phôi khảm thấp là 4,5% (68/1,511) và tỉ lệ phôi khảm cao là 2,5%(38/1,511), tỉ lệ phôi lệch bội là 47,2% (713/1,511). Độ tuổi trung bình và chỉ số BMI của những bệnh nhân lần lượt là 36,8±5,4 tuổi và 22,9±3,5 kg/m2. Tuổi trung bình của chồng là 39±7,5 tuổi.
Tỉ lệ lệch bội của phôi tăng lên đáng kể khi người vợ có độ tuổi càng cao, tuy nhiên tỉ lệ khảm lại không phụ thuộc vào tuổi của vợ và chồng. Tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt giảm rõ rệt từ phôi nguyên bội (66,9%) đến thể khảm (52,8%) và thể dị bội (47,7%). Vì vậy, có thể nói chất lượng hình thái của phôi tăng dần từ lệch bội (thấp nhất) đến thể khảm (trung bình) và nguyên bội (cao nhất). Không có yếu tố nền (tuổi vợ, BMI, liều FSH, loại tủ cấy) có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến động học phát triển của phôi (p>0,05).
Các phôi nang dị bội chậm phát triển đáng kể so với phôi nang nguyên bội, cụ thể khi bắt đầu quá trình nén (trung bình 84,72 giờ so với 82,10 giờ sau ICSI), bắt đầu tạo khoang phôi (trung bình 101 giờ so với 98,29 giờ) và phôi nang hoàn chỉnh (trung bình 108,04 giờ so với 104,71 giờ). Tuy nhiên, động học phát triển của phôi không tương quan với mức độ khảm của phôi. Tuy nhiên, khi so sánh thông số động học giữa phôi có tỉ lệ khảm cao và tỉ lệ khảm thấp không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa phôi nguyên bội và lệch bội (p>0,05). Thông số động học giữa phôi có tiềm năng sử dụng và không sử dụng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p>0,05).
Bàn luận
Nuôi cấy phôi kết hợp TLM cho phép theo dõi tiến trình phân chia của phôi và mối tương quan giữa thời gian phân chia với tính nguyên bội của phôi. Một số nghiên cứu trước đây cho thấy phôi lệch bội có thời gian phân chia chậm hơn phôi nguyên bội (tB), kết quả nghiên cứu của nhóm củng cố ý tưởng này. Nghiên cứu vẫn còn những hạn chế. Đầu tiên là tính chất hồi cứu của nghiên cứu không chọn lựa ngẫu nhiên. Nghiên cứu đơn trung tâm với cỡ mẫu nhỏ là hạn chế thứ hai, tương lai cần mở rộng thêm trên quần thể lớn hơn nhằm khái quát hoá vấn đề. Hạn chế thứ ba chính là trình độ kỹ thuật trong phân biệt giữa khảm tỉ lệ cao và thấp còn chưa hoàn thiện cao.
Kết luận
Nhóm tác giả chứng minh giả định rằng phôi khảm không liên quan đến động học phát triển của phôi nguyên bội và lệch bội. Phôi khảm có thông số động học có thể gần tương tự phôi nguyên bội hay lệch bội do có thể xuất hiện hiện tượng dương tính giả hay âm tính giả.
Nguồn: Martín, Á., Rodrigo, L., Beltrán, D., Meseguer, M., Rubio, C., Mercader, A., & de Los Santos, M. J. (2021). The morphokinetic signature of mosaic embryos: evidence in support of their own genetic identity. Fertility and Sterility.
Phôi lệch bội (bất thường số lượng nhiễm sắc thể) là nguyên nhân chính dẫn đến vô sinh và thất bại trong điều trị hiếm muộn. Các tế bào lệch bội được chứng minh có liên hệ đến độ tuổi của cặp vợ chồng. Việc thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A) bằng công cụ giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) trên một số tế bào lá nuôi phôi (TE) có thể đánh giá tình trạng lệch bội hay nguyên bội của phôi. Giá trị lâm sàng của PGT-A đã được thảo luận trong thời gian dài, một số nghiên cứu cho thấy chuyển phôi có kết quả nguyên bội bằng sinh thiết TE làm tăng đáng kể tỉ lệ có thai và tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi bệnh nhân, đồng thời giảm nguy cơ sảy thai trong thai kỳ. Phôi khảm được định nghĩa là hiện tượng trong cùng một phôi, có hai hay nhiều phôi bào có kiểu gen khác hoàn toàn so với số phôi bào còn lại. Khác với trường hợp lệch bội hoàn toàn, hiện tượng phôi khảm gây ra nhận định dương tính hay âm tính giả, từ đó đưa ra lựa chọn sử dụng phôi sai, dẫn đến thất bại điều trị cho bệnh nhân. Với sự phát triển ngày nay của kỹ thuật NGS, độ nhạy trong phát hiện khảm đã tăng cao, cung cấp định lượng chính xác hơn về sự thay đổi số bản sao chép trên mẫu TE. Một số trung tâm đã báo cáo những trường hợp sinh sống khoẻ mạnh sau khi chuyển phôi khảm. Tuy nhiên, những nghiên cứu này đồng thời cho thấy phôi nang có hiện tượng khảm có tỉ lệ làm tổ kém hơn và tỉ lệ sẩy thai cao hơn so với phôi nguyên bội hoàn toàn.
Kỹ thuật nuôi cấy phôi kết hợp camera quan sát liên tục (TLM) trong thực hành IVF đã tạo nhiều thuận lợi trong điều trị IVF. Sự kết hợp giữa thông số động học cùng kết quả sinh thiết phôi cho thấy kết quả chính xác hơn trong dự đoán phôi nguyên bội hay lệch bội. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phôi lệch bội có thông số động học sai biệt so với phôi bình thường, một số nghiên cứu chỉ ra thời điểm từ nguyên phân đầu đến lần hai biểu hiện rõ nhất sự khác biệt này với chỉ số (t3-t2) và (t4-t6). Các bất thường nguyên phân là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng khảm ở phôi giai đoạn phân chia sớm. Do đó, việc kết hợp thông số động học và PGT-A giúp mở ra tiềm năng to lớn trong việc phát hiện phôi khảm và có kết quả điều trị tốt hơn.
Mục tiêu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp kết quả động học phân chia của phôi được xếp loại dựa trên tỉ lệ khảm của phôi.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện trên 1,511 phôi từ 424 chu kỳ thực hiện ICSI sử dụng hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp camera quan sát liên tục (TLM). Phân tích 106 phôi khảm. Trong quần thể nghiên cứu, 52,1% phụ nữ trên 35 tuổi (221/424), 11,8% phụ nữ thất bại làm tổ (50/424) và 8,7% là do yếu tố nam (37/424) được chỉ định tiến hành PGT-A. Thực hiện sinh thiết trên phôi nang ngày 5 với khoang phôi đã nở rộng hoàn toàn. So sánh đặc điểm nhiễm sắc thể, hình thái và thông số động học của phôi nang được cho là nguyên bội, lệch bội, phôi có tỉ lệ khảm thấp (30% đến <50%) và tỉ lệ khảm cao (50% đến <70%).
Kết quả
Trong quần thể nghiên cứu thực hiện PGT-A, phôi nguyên bội là 45,8% (692/1511), tỉ lệ phôi khảm thấp là 4,5% (68/1,511) và tỉ lệ phôi khảm cao là 2,5%(38/1,511), tỉ lệ phôi lệch bội là 47,2% (713/1,511). Độ tuổi trung bình và chỉ số BMI của những bệnh nhân lần lượt là 36,8±5,4 tuổi và 22,9±3,5 kg/m2. Tuổi trung bình của chồng là 39±7,5 tuổi.
Tỉ lệ lệch bội của phôi tăng lên đáng kể khi người vợ có độ tuổi càng cao, tuy nhiên tỉ lệ khảm lại không phụ thuộc vào tuổi của vợ và chồng. Tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt giảm rõ rệt từ phôi nguyên bội (66,9%) đến thể khảm (52,8%) và thể dị bội (47,7%). Vì vậy, có thể nói chất lượng hình thái của phôi tăng dần từ lệch bội (thấp nhất) đến thể khảm (trung bình) và nguyên bội (cao nhất). Không có yếu tố nền (tuổi vợ, BMI, liều FSH, loại tủ cấy) có ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến động học phát triển của phôi (p>0,05).
Các phôi nang dị bội chậm phát triển đáng kể so với phôi nang nguyên bội, cụ thể khi bắt đầu quá trình nén (trung bình 84,72 giờ so với 82,10 giờ sau ICSI), bắt đầu tạo khoang phôi (trung bình 101 giờ so với 98,29 giờ) và phôi nang hoàn chỉnh (trung bình 108,04 giờ so với 104,71 giờ). Tuy nhiên, động học phát triển của phôi không tương quan với mức độ khảm của phôi. Tuy nhiên, khi so sánh thông số động học giữa phôi có tỉ lệ khảm cao và tỉ lệ khảm thấp không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa phôi nguyên bội và lệch bội (p>0,05). Thông số động học giữa phôi có tiềm năng sử dụng và không sử dụng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p>0,05).
Bàn luận
Nuôi cấy phôi kết hợp TLM cho phép theo dõi tiến trình phân chia của phôi và mối tương quan giữa thời gian phân chia với tính nguyên bội của phôi. Một số nghiên cứu trước đây cho thấy phôi lệch bội có thời gian phân chia chậm hơn phôi nguyên bội (tB), kết quả nghiên cứu của nhóm củng cố ý tưởng này. Nghiên cứu vẫn còn những hạn chế. Đầu tiên là tính chất hồi cứu của nghiên cứu không chọn lựa ngẫu nhiên. Nghiên cứu đơn trung tâm với cỡ mẫu nhỏ là hạn chế thứ hai, tương lai cần mở rộng thêm trên quần thể lớn hơn nhằm khái quát hoá vấn đề. Hạn chế thứ ba chính là trình độ kỹ thuật trong phân biệt giữa khảm tỉ lệ cao và thấp còn chưa hoàn thiện cao.
Kết luận
Nhóm tác giả chứng minh giả định rằng phôi khảm không liên quan đến động học phát triển của phôi nguyên bội và lệch bội. Phôi khảm có thông số động học có thể gần tương tự phôi nguyên bội hay lệch bội do có thể xuất hiện hiện tượng dương tính giả hay âm tính giả.
Nguồn: Martín, Á., Rodrigo, L., Beltrán, D., Meseguer, M., Rubio, C., Mercader, A., & de Los Santos, M. J. (2021). The morphokinetic signature of mosaic embryos: evidence in support of their own genetic identity. Fertility and Sterility.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone vào ngày chọc hút trứng với các loại hormon cơ bản và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-12-2021
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone vào ngày chọc hút trứng với các loại hormon cơ bản và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-12-2021
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone vào ngày chọc hút trứng với các loại hormon cơ bản và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-12-2021
Xác định giới tính phôi người không xâm lấn bằng cách sử dụng RT-PCR cho môi trường đã nuôi cấy phôi: một nghiên cứu chứng minh tính khả thi của ý tưởng - Ngày đăng: 09-12-2021
Tốc độ phát triển phôi nang ảnh hưởng đến kết quả thai ở các chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi nang có chất lượng tương đồng - Ngày đăng: 09-12-2021
Bảo quản lạnh kéo dài ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả chuyển phôi sau chiến lược trữ phôi toàn bộ chọn lọc: Một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 06-12-2021
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ ở phụ nữ ≥ 40 tuổi có đáp ứng buồng trứng kém - Ngày đăng: 06-12-2021
Lựa chọn tinh trùng bất động bằng laser không ảnh hưởng đến kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh từ chu kỳ TESA-ICSI - Ngày đăng: 06-12-2021
Hình ảnh trao đổi chất của các tế bào cumulus cho thấy các mối liên quan giữa các kiểu trao đổi chất của các tế bào cumulus với các yếu tố lâm sàng của bệnh nhân và sự trưởng thành noãn - Ngày đăng: 06-12-2021
Thiết lập nồng độ CO2 khác nhau (6,0% so với 7,0%) ảnh hưởng đến pH của môi trường nuôi cấy (pHe) và tỉ lệ phôi nguyên bội hơn sự phát triển của phôi nang: một nghiên cứu chia noãn - Ngày đăng: 04-12-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK