Tin tức
on Sunday 28-11-2021 8:39pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Minh Phượng
Trữ noãn xã hội (Social egg freezing) được thực hiện với mục đích kéo dài tiềm năng sinh sản trong trường hợp không có chỉ định y tế. Mặc dù trường hợp mang thai đầu tiên sử dụng noãn đông lạnh được báo cáo đầu tiên vào năm 1986, tuy nhiên do phương pháp đông lạnh chậm cho tỷ lệ sống và thụ tinh của noãn sau rã đông thấp nên không được sử dụng phổ biến trong khoảng thời gian đó. Phương pháp thủy tinh hóa (hoặc đông lạnh cực nhanh) ra đời, hạn chế được những tổn thương do quá trình đông lạnh gây nên cho noãn bào, cải thiện các tỷ lệ lâm sàng đáng kể nên đông lạnh noãn đã được chấp thuận và sử dụng rộng rãi.
Nhu cầu bảo tồn khả năng sinh sản ngày một tăng đã làm cho trữ noãn xã hội phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Nó gắn liền với xu hướng hiện tại, khi phụ nữ muốn trì hoãn việc sinh con để theo đuổi cơ hội học tập, phát triển nghề nghiệp hay độc lập tài chính. Ở nước Anh, theo thống kê vào năm 2018, tỷ lệ lao động nữ từ 16 tuổi trở lên cao kỷ lục (71,4 %), việc làm toàn thời gian tăng lên từ 29% năm 1985 lên 44% vào năm 2017. Trong suốt khoảng thời gian này, tuổi mẹ trung bình khi có đứa con đầu tiên đã tăng từ 25,1 lên đến 28,8 và hiện tại ở Anh có hơn một nửa các ca sinh bởi các bà mẹ trên 30 tuổi. Xu hướng tương tự cũng được nhận thấy tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xem xét các tài liệu hiện tại về hiệu quả và khả năng chấp nhận của việc trữ noãn xã hội liên quan tới tuổi tác của người phụ nữ tại thời điểm trữ noãn và tỷ lệ trẻ sinh sống từ các chu kỳ đông lạnh/rã đông.
Cơ sở dữ liệu được truy xuất từ Medline được thực hiện bởi các đánh giá viên độc lập. Sau quá trình tìm kiếm có tổng cộng 39 bài báo đủ điều kiện tham gia nghiên cứu và 15 nghiên cứu được đưa vào để phân tích tỷ lệ trẻ sinh sống của phương pháp đông lạnh noãn tự thân.
Một số kết quả thu nhận được:
- Số noãn một chu kỳ đông lạnh và rã đông:
· Đông lạnh: Tại Anh, tỷ lệ trữ noãn xã hội tăng 370% vào năm 2016 so với năm 2010, số noãn được đông lạnh trung bình khoảng 8-10 noãn. Mặc dù tỷ lệ thực hiện trữ noãn xã hội tăng lên, nhưng chỉ chiếm khoảng 1,5% trong tổng số chu kỳ thực hiện IVF. Dữ liệu tương tự cũng được nhận thấy trên toàn thế giới.
· Rã đông: Hầu hết phải mất khá nhiều thời gian để bệnh nhân quay lại để sử dụng noãn của họ và đang có xu hướng tăng những năm trở lại đây. Tại Anh, chỉ riêng năm 2017 số lượng chu kỳ rã noãn đã tăng 16%, tuy nhiên vẫn ít hơn một nửa chu kỳ đông lạnh noãn xã hội. Tương tự tại Hoa Kỳ, hơn 85% bệnh nhân chưa quay lại.
· Tuổi tác, tình trạng bạn đời và chi phí: Hiện nay, độ tuổi thực hiện trữ noãn thường ở khoảng 36 đến 40 tuổi. Có khảng 46% phụ nữ đông lạnh noãn, nhưng chỉ 2% quay lại và điều trị hỗ trợ sinh sản không có bạn đời. Theo ước tính chi phí trung bình của một chu kì trữ noãn xã hội dao đông khoảng £7.000 đến £8.000 tại Anh, 15.000 $ đến 20.000$ ở Mỹ hay xấp xỉ AUD$8.000 ở Australia. Các chi phí này đều do bệnh nhân tự trả mà không có sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách của quốc gia nên bệnh nhân thực hiện trữ noãn xã hội thường nằm trong nhóm lớn tuổi.
- Kết quả của các chu kỳ rã đông noãn:
· Tỷ lệ trẻ sinh sống trên một chu kỳ: Dữ liệu từ 13 nghiên cứu cho thấy, nhóm bệnh nhân dưới 35 tuổi: dao động từ 1,3 – 7,5%, nhóm bệnh nhân từ 35-39 tuổi: 1,3 – 4,8% và khi bệnh nhân từ 40 – 43 tuổi tỷ lệ sinh sống là 0%.
· Số noãn cần thiết: số noãn được nhận thấy khác nhau trong từng nghiên cứu tùy thuộc vào mục đích, tình trạng bệnh nhân, sự khác nhau giữa các trung tâm.
· Nguy cơ tiềm năng: bệnh nhân phải đối mặt với một số nguy cơ như: hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS), chảy máu, nhiễm trùng, chấn thương vùng chậu, sự thay đổi thượng di truyền của phôi từ noãn đông lạnh, hay mối quan tâm về sự phát triển của trẻ sinh ra bằng phương pháp đông lạnh noãn.
Trữ noãn xã hội có thể là một lựa chọn để bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ. Theo các dữ liệu hiện tại, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện tại là tương đối an toàn với bệnh nhân, tỷ lệ thành công được cải thiện nhanh chóng để tiến gần hơn so với phương pháp sử dụng noãn tươi. Để đạt hiệu quả cao, bệnh nhân nên được tư vấn về nguồn dữ liệu ít ỏi hiện tại, chi phí và một số lựa chọn thay thế. Ngoài ra, cần thêm rất nhiều nghiên cứu để đánh giá tiềm năng của xu hướng này.
Tài liệu tham khảo: Teo, Ung Lim, Pragati Kakkar, and Tarek El-Toukhy. "Current perspectives on social oocyte freezing." Journal of Obstetrics and Gynaecology (2021): 1-9.
Trữ noãn xã hội (Social egg freezing) được thực hiện với mục đích kéo dài tiềm năng sinh sản trong trường hợp không có chỉ định y tế. Mặc dù trường hợp mang thai đầu tiên sử dụng noãn đông lạnh được báo cáo đầu tiên vào năm 1986, tuy nhiên do phương pháp đông lạnh chậm cho tỷ lệ sống và thụ tinh của noãn sau rã đông thấp nên không được sử dụng phổ biến trong khoảng thời gian đó. Phương pháp thủy tinh hóa (hoặc đông lạnh cực nhanh) ra đời, hạn chế được những tổn thương do quá trình đông lạnh gây nên cho noãn bào, cải thiện các tỷ lệ lâm sàng đáng kể nên đông lạnh noãn đã được chấp thuận và sử dụng rộng rãi.
Nhu cầu bảo tồn khả năng sinh sản ngày một tăng đã làm cho trữ noãn xã hội phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Nó gắn liền với xu hướng hiện tại, khi phụ nữ muốn trì hoãn việc sinh con để theo đuổi cơ hội học tập, phát triển nghề nghiệp hay độc lập tài chính. Ở nước Anh, theo thống kê vào năm 2018, tỷ lệ lao động nữ từ 16 tuổi trở lên cao kỷ lục (71,4 %), việc làm toàn thời gian tăng lên từ 29% năm 1985 lên 44% vào năm 2017. Trong suốt khoảng thời gian này, tuổi mẹ trung bình khi có đứa con đầu tiên đã tăng từ 25,1 lên đến 28,8 và hiện tại ở Anh có hơn một nửa các ca sinh bởi các bà mẹ trên 30 tuổi. Xu hướng tương tự cũng được nhận thấy tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xem xét các tài liệu hiện tại về hiệu quả và khả năng chấp nhận của việc trữ noãn xã hội liên quan tới tuổi tác của người phụ nữ tại thời điểm trữ noãn và tỷ lệ trẻ sinh sống từ các chu kỳ đông lạnh/rã đông.
Cơ sở dữ liệu được truy xuất từ Medline được thực hiện bởi các đánh giá viên độc lập. Sau quá trình tìm kiếm có tổng cộng 39 bài báo đủ điều kiện tham gia nghiên cứu và 15 nghiên cứu được đưa vào để phân tích tỷ lệ trẻ sinh sống của phương pháp đông lạnh noãn tự thân.
Một số kết quả thu nhận được:
- Số noãn một chu kỳ đông lạnh và rã đông:
· Đông lạnh: Tại Anh, tỷ lệ trữ noãn xã hội tăng 370% vào năm 2016 so với năm 2010, số noãn được đông lạnh trung bình khoảng 8-10 noãn. Mặc dù tỷ lệ thực hiện trữ noãn xã hội tăng lên, nhưng chỉ chiếm khoảng 1,5% trong tổng số chu kỳ thực hiện IVF. Dữ liệu tương tự cũng được nhận thấy trên toàn thế giới.
· Rã đông: Hầu hết phải mất khá nhiều thời gian để bệnh nhân quay lại để sử dụng noãn của họ và đang có xu hướng tăng những năm trở lại đây. Tại Anh, chỉ riêng năm 2017 số lượng chu kỳ rã noãn đã tăng 16%, tuy nhiên vẫn ít hơn một nửa chu kỳ đông lạnh noãn xã hội. Tương tự tại Hoa Kỳ, hơn 85% bệnh nhân chưa quay lại.
· Tuổi tác, tình trạng bạn đời và chi phí: Hiện nay, độ tuổi thực hiện trữ noãn thường ở khoảng 36 đến 40 tuổi. Có khảng 46% phụ nữ đông lạnh noãn, nhưng chỉ 2% quay lại và điều trị hỗ trợ sinh sản không có bạn đời. Theo ước tính chi phí trung bình của một chu kì trữ noãn xã hội dao đông khoảng £7.000 đến £8.000 tại Anh, 15.000 $ đến 20.000$ ở Mỹ hay xấp xỉ AUD$8.000 ở Australia. Các chi phí này đều do bệnh nhân tự trả mà không có sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách của quốc gia nên bệnh nhân thực hiện trữ noãn xã hội thường nằm trong nhóm lớn tuổi.
- Kết quả của các chu kỳ rã đông noãn:
· Tỷ lệ trẻ sinh sống trên một chu kỳ: Dữ liệu từ 13 nghiên cứu cho thấy, nhóm bệnh nhân dưới 35 tuổi: dao động từ 1,3 – 7,5%, nhóm bệnh nhân từ 35-39 tuổi: 1,3 – 4,8% và khi bệnh nhân từ 40 – 43 tuổi tỷ lệ sinh sống là 0%.
· Số noãn cần thiết: số noãn được nhận thấy khác nhau trong từng nghiên cứu tùy thuộc vào mục đích, tình trạng bệnh nhân, sự khác nhau giữa các trung tâm.
· Nguy cơ tiềm năng: bệnh nhân phải đối mặt với một số nguy cơ như: hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS), chảy máu, nhiễm trùng, chấn thương vùng chậu, sự thay đổi thượng di truyền của phôi từ noãn đông lạnh, hay mối quan tâm về sự phát triển của trẻ sinh ra bằng phương pháp đông lạnh noãn.
Trữ noãn xã hội có thể là một lựa chọn để bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ. Theo các dữ liệu hiện tại, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện tại là tương đối an toàn với bệnh nhân, tỷ lệ thành công được cải thiện nhanh chóng để tiến gần hơn so với phương pháp sử dụng noãn tươi. Để đạt hiệu quả cao, bệnh nhân nên được tư vấn về nguồn dữ liệu ít ỏi hiện tại, chi phí và một số lựa chọn thay thế. Ngoài ra, cần thêm rất nhiều nghiên cứu để đánh giá tiềm năng của xu hướng này.
Tài liệu tham khảo: Teo, Ung Lim, Pragati Kakkar, and Tarek El-Toukhy. "Current perspectives on social oocyte freezing." Journal of Obstetrics and Gynaecology (2021): 1-9.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân thất bại làm tổ liên tiếp ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy ở chu kỳ IVF/ICSI - Ngày đăng: 28-11-2021
Đánh giá phôi phát triển từ 0PN trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển thông qua hệ thống timelapse - Ngày đăng: 27-11-2021
Thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn bằng vi phẫu (micro‑TESE) ở nam giới vô tinh không do tắc: tổng hợp các y văn cho đến hiện tại - Ngày đăng: 19-11-2021
Việc loại bỏ tinh trùng apoptotic trong quy trình IVF và ảnh hưởng của nó đến tỷ lệ thai - Ngày đăng: 19-11-2021
Ảnh hưởng của cysteine và glutamine lên các thông số chức năng của tinh trùng người trong quá trình thủy tinh hóa - Ngày đăng: 19-11-2021
Virus HPV trong tinh trùng có thể được loại bỏ hiệu quả bằng phương pháp lọc rửa: một cách tiếp cận phù hợp cho hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 16-11-2021
Hiệu quả của PGT-A đối với nam giới vô sinh mức độ nặng - Ngày đăng: 16-11-2021
Tiên lượng tỷ lệ sống của phôi và trẻ sinh sống sau chuyển phôi nang đông lạnh được thuỷ tinh hóa - Ngày đăng: 12-11-2021
Cập nhật khuyến cáo của CDC 2021 về điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục (phần 3) - Ngày đăng: 12-11-2021
Suy giảm các thông số tinh dịch đồ ở những bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 12-11-2021
Phân tích và định lượng ảnh hưởng của vợ và chồng trong động học phôi giai đoạn đầu thông qua hệ thống timelapse - Ngày đăng: 12-11-2021
Tác động của nhiệt độ môi trường lên dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 04-12-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK