Tin tức
on Saturday 27-03-2021 2:40pm
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Minh Phượng, Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Trải qua hơn 40 năm phát triển, công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã và đang gặt hái được rất nhiều thành công. Tuy nhiên, một số nghiên cứu nhận thấy rằng các trường hợp mang thai nhờ ART gặp nhiều nguy cơ như rối loạn huyết áp, băng huyết, sinh non, trẻ phát triển chậm, … (Berntsen và cs, 2019). Nhiều lý giải được đưa ra trong đó có khả năng đáp ứng với kích thích buồng trứng ở người mẹ, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều tranh cãi (Sunkara và cs, 2015; Magnusson và cs, 2018). Để làm rõ vấn đề này, nghiên cứu được thực hiện bởi Erlisa và cộng sự với mục đích đánh giá mối liên quan giữa số lượng noãn thu nhận sau kích thích buồng trứng và kết quả chu sinh.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu trên 964 bệnh nhân trải qua chu kỳ kích thích buồng trứng đầu tiên của họ sử dụng phác đồ antagonist gonadotrophin (GnRH antagonist) sau đó thực hiện chu kỳ chuyển phôi tươi (chuyển đơn phôi) từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 12 năm 2015. Bệnh nhân được phân thành 4 nhóm theo số lượng noãn thu nhận: 1-3 noãn (nhóm 1), 4-9 noãn (nhóm 2), 10–15 noãn (nhóm 3) hoặc hơn 15 noãn (nhóm 4).
Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt thống kê liên quan nào được tìm thấy giữa các kết quả chu sinh với 4 nhóm đáp ứng buồng trứng:
- Cân nặng trẻ khi sinh (gram): 3222 ± 607 (nhóm 1); 3254 ± 537 (nhóm 2); 3235 ± 575 (nhóm 3) và 3200 ± 622 (nhóm 4); P = 0,85. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào được tìm thấy giữa các loại đáp ứng của buồng trứng đối với chỉ số cân nặng khi sinh (đã bao gồm các yếu tố giới tính sơ sinh và thời gian sinh).
- Tỷ lệ sinh non và nhẹ cân là tương đương giữa các nhóm (P = 0,127 và P= 0,19 tương ứng).
- Sự xuất hiện của các kết quả sản khoa bất lợi được tìm thấy không khác nhau giữa các nhóm đáp ứng buồng trứng.
Nguồn: Erlisa Bardhi, Christophe Blockeel, Wilfried Cools, Samuel Santos-Ribeiro, Annalisa Racca, Shari Mackens, Michel De Vos, Nikolaos P Polyzos, Biljana Popovic-Todorovic, Michael De Brucker, Ludovico Muzii, Pierluigi Benedetti Panici, Herman Tournaye, Panagiotis Drakopoulos. Is ovarian response associated with adverse perinatal outcomes in GnRH antagonist IVF/ ICSI cycles? Doi:10.1016/j.rbmo.2020.03.010.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tương quan giữa tuổi thai lúc sinh với tỷ lệ tử vong chu sinh và nhu cầu giáo dục đặc biệt ở song thai - Ngày đăng: 11-09-2020
Trữ phôi toàn bộ không làm tăng tỉ lệ sinh sống ở bệnh nhân lớn tuổi - Ngày đăng: 27-03-2021
Ảnh hưởng của tiền sử sinh mổ lên kết quả chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 08-09-2020
Mối tương quan giữa chất lượng ICM và nguy cơ sẩy thai trong tam cá nguyệt đầu tiên của chu kỳ chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 08-09-2020
Hormone sinh sản và vitamin E ở nam trưởng thành hút thuốc chủ động và thụ động ở Calabar, Nigeria - Ngày đăng: 08-09-2020
Ảnh hưởng ngắn hạn của việc gia tăng sử dụng rượu và thuốc lá đối với chất lượng tinh dịch của thanh niên khỏe mạnh - Ngày đăng: 08-09-2020
Mối tương quan giữa độ dày nội mạc tử cung và chất lượng phôi lên tỉ lệ sinh sống trong chu kỳ chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 08-09-2020
Vô sinh có liên quan đến hút thuốc lá ở người nam: một nghiên cứu ở vùng nông thôn Trung Quốc - Ngày đăng: 07-09-2020
Đánh giá yếu tố dự đoán kết quả điều trị ở những bệnh nhân NOA thực hiện microTESE - Ngày đăng: 07-09-2020
Hội chứng chuyển hóa và hút thuốc là các yếu tố nguy cơ độc lập của vô sinh nam không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 07-09-2020
Hội chứng chuyển hóa và hút thuốc là các yếu tố nguy cơ độc lập của vô sinh nam không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 07-09-2020
Mối tương quan giữa tuổi của bố và nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt ở trẻ - Ngày đăng: 07-09-2020
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK