Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 08-09-2020 11:28am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. VŨ ĐOAN MỸ TRINH – IVFMD Bình Dương

Các thống kê gần đây cho thấy tỷ lệ sinh mổ (Cesarean delivery - CD) đang ngày càng gia tăng. Tỷ lệ sinh mổ vào năm 2015 ước tính khoảng 21,1% (29,7 triệu ca sinh mổ), gần gấp đôi tỷ lệ năm 2000 (12,1%). Người ta nhận thấy những trường hợp sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) có tỷ lệ CD cao hơn so với những trường hợp mang thai tự nhiên do lo ngại về các biến chứng sản khoa và chu sinh có thể gặp khi thực hiện ART. Mặc dù CD có thể là can thiệp cần thiết để cứu sống mẹ và trẻ, thủ thuật này cũng gây ảnh hưởng xấu đến việc mang thai trong tương lai. So với sinh thường (Vaginal delivery - VD), mang thai sau CD có nhiều nguy cơ hơn như tỷ lệ mang thai và sinh thấp hơn khoảng 10%, trong khi khả năng thai ngoài tử cung, sẩy thai và thai lưu cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ có vài nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa phương pháp sinh ở lần sinh trước với kết quả sinh sản khi thực hiện ART cũng như các kết quả vẫn còn mâu thuẫn với nhau do hạn chế trong việc phân tích các số liệu thống kê. Ngoài ra, ở các chu kỳ IVF/ICSI có kích thích buồng trứng, nội tiết tố có thể ảnh hưởng đến nội mạc tử cung, co bóp tử cung, khả năng thai làm tổ và sự phát triển nhau thai. Do đó, trữ phôi toàn bộ sau khi kích thích buồng trứng có kiểm soát (COS) giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi và cung cấp một mô hình mới để đánh giá tác động của CD đối với kết quả lâm sàng. Do đó, Jialyu Huang và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của CD trước đó đối với kết quả chuyển phôi trữ (FET) trong chu kỳ trữ phôi toàn bộ.



Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đơn trung tâm được thực hiện từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2018 trên 2660 bệnh nhân chuyển phôi trữ lần đầu trong chu kỳ FET. Bệnh nhân có tiền sử (một hoặc nhiều lần) CD được phân vào nhóm CD, những bệnh nhân chỉ VD được phân vào nhóm VD. Tiêu chí loại trừ là những bệnh nhân: i) sẩy thai tự nhiên; ii) dị tật tử cung bẩm sinh; iii) phẫu thuật cắt bỏ tử cung trước đó hoặc phẫu thuật nội soi tử cung; iv) sử dụng tinh trùng hiến tặng hoặc phẫu thuật lấy tinh trùng để thụ tinh; v) thiếu hồ sơ trong cơ sở dữ liệu điện tử.

Kết quả cho thấy so với nhóm VD, tỷ lệ beta hCG dương (42,5% so với 50,0%; P = 0,001), tỷ lệ thai lâm sàng (38,3% so với 44,5%; P = 0,005) và tỷ lệ trẻ sinh sống (27,5% so với 33,4%; P = 0,003) thấp hơn đáng kể ở nhóm CD. Nhóm CD có nguy cơ sẩy thai sớm tăng nhẹ (OR 1.47, 95% CI 1.01–2.14), trong khi đó tỷ lệ đa thai và thai ngoài tử cung không cho thấy sự khác biệt đáng kể.

Kết quả nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân đã từng sinh mổ ở lần sinh trước có ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống và tăng nguy cơ sẩy thai sớm trong chu kỳ chuyển phôi trữ, do đó nhóm nghiên cứu cho rằng các bác sĩ cần tư vấn kỹ, đầy đủ trước khi chỉ định sinh mổ với bệnh nhân sinh lần đầu.

Nguồn: Huang J., Lin J., Cai R., Lu X., Song N., Gao H., Zhu J. and Kuang Y. (2020), "Effect of a prior cesarean delivery on pregnancy outcomes of frozen‐thawed embryo transfer: A retrospective cohort study in a freeze‐all setting", Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica.  Doi: 10.1111/aogs.13863.
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK