Tin tức
on Thursday 14-05-2020 10:39am
Danh mục: Tin quốc tế
Võ Minh Tuấn - IVFMD Tân Bình
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh mãn tính ảnh hưởng đến 10% phụ nữ và mối quan hệ giữa LNMTC đến khả năng sinh sản vẫn là vấn đề đang được quan tâm. Hiện nay, cơ chế vô sinh liên quan đến LNMTC vẫn chưa được biết rõ, bệnh này được cho là có liên quan đến rối loạn chức năng rụng trứng như thay đổi trong quá trình hình thành trứng, dịch màng bụng (PF) (Krina, 2018). Các nghiên cứu trước đã đề cập đến việc thay đổi trạng thái hình thành mạch máu của lớp tế bào đáy sau khi xử lý nội mạc với dịch PF, nó giúp gia tăng sự biểu hiện của các cytokine như: interleukin-1 (IL-1), IL-6, IL-8 và TNF-a trong dịch nang của những bệnh nhân này (Wu, 2003; Braza, 2016). Do vậy trong quá trình thụ tinh tự nhiên, chính các cytokine này trong dịch màng bụng sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tinh trùng và trứng (Torres, 2002). Sự thụ tinh thành công phụ thuộc vào một số chức năng sinh lý của tinh trùng. Nhìn chung, một số dấu ấn sinh học như: phản ứng acrosome, khả năng di động, liên kết với noãn, ... được cho là có liên quan đến LMNTC (Aither, 1996; Tasdemir, 1995). Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào phân tích ảnh hưởng của LNMTC đến các dấu ấn sinh học này một cách rõ ràng. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện để phân tích ảnh hưởng của LNMTC đến các chức năng của tinh trùng. Phương pháp này có thể hữu ích để hiểu vô sinh vô căn ở các đối tác nam của phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung và giúp tìm ra phương pháp trị liệu đầy đủ nhất để giải quyết nó.
Tổng cộng có 45 mẫu dịch màng bụng (PF) được thu từ hai nhóm: Nhóm 1 gồm những phụ nữ bị LNMTC (PFE, n = 25), nhóm 2 gồm những phụ nữ không bị LNMTC (NFNE, n = 20). Mẫu tinh dịch thu được từ những người vô sinh có chỉ số tinh dịch đồ bình thường (n = 15) với thời gian kiêng xuất tinh từ 3 – 5 ngày. Mẫu tinh dịch sẽ được nuôi cấy với dịch PF của cả hai nhóm trong thời gian 24 và 48 giờ. Mẫu sau nuôi cấy sẽ được làm các xét nghiệm đánh giá độ di động, khả năng sống, phản ứng acrosome, ...
Kết quả:
- Sau khi nuôi cấy 24 giờ, độ di động của nhóm PFE giảm đáng kể so với nhóm đối chứng (40,00 ±5,24 so với 70,75±3,88, P<0,05), ngoài ra nhóm PFE còn có sự khác biệt về vị trí gắn gốc đường AAA và WGA so với nhóm đối chứng. Hơn nữa, tinh trùng của nhóm PFNE có mức độ phản ứng acrosome tự phát thấp hơn hẳn.
- Sau khi nuôi cấy 48 giờ, nhóm PFNE cho thấy không có bất kì sự khác biệt nào trong các dấu ấn sinh học so với nhóm đối chứng, ngoại trừ sự khác biệt về vị trí gắn gốc đường tự do. Mặt khác, các tế bào nhóm PFE cho thấy độ di động thấp hơn đáng kể.
Nguồn: Sáez-Espinosa, P., Velasco, I., Lorca, P., Acién, M. I., Romero, A., & Gómez-Torres, M. J. (2020). Peritoneal fluid from women with endometriosis impairs human spermatozoa functionality. Reproductive Biology, 20(1), 81-87.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 06 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK