Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 07-03-2020 10:18am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Ths. Phan Thị Kim Anh – IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức


Trưởng thành noãn non trong ống nghiệm (IVM) là một kỹ thuật thu nhận noãn non và nuôi trưởng thành bên ngoài cơ thể mà không có bất kỳ kích thích buồng trứng nào. Vào năm 1990, những em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật IVM đã được báo cáo bởi Cha và cộng sự, năm 1991. Kể từ đó, kỹ thuật IVM đã được áp dụng rộng rãi trên nhiều nhóm đối tượng bệnh nhân vô sinh: buồng trứng đa nang, đáp ứng cao với thuốc kích thích buồng trứng, bảo tồn khả năng sinh sản, ...

Bệnh đa xơ cứng (Multiple Sclerosis - MS) là một chứng rối loạn não bộ và tủy sống làm suy giảm chức năng thần kinh. Bệnh đa xơ cứng chủ yếu ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (Niedziela và cộng sự, 2014). Các nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của công nghệ hỗ trợ sinh sản đối với bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng đã cho thấy sự gia tăng đáng kể tỷ lệ tái phát hàng năm (ARR) sau khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (Hellwig và cộng sự, 2008). Sự gia tăng này được quan sát thấy đặc biệt ở những bệnh nhân sử dụng hormone gonadotropin (GnRH) - thuốc kích thích buồng trứng. Theo y văn hiện nay, các nhà khoa học đã đề xuất rằng có thể có nhiều tương tác phức tạp giữa các yếu tố nội tiết tố và miễn dịch liên quan đến sự gia tăng tình trạng của bệnh.

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã báo cáo hai trường hợp bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng, thực hiện điều trị vô sinh bằng kỹ thuật IVM, được cho là một lựa chọn điều trị thay thế cho bệnh nhân vô sinh mắc bệnh đa xơ cứng.

Bệnh nhân đầu tiên (A.B.K., 28 tuổi), được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng và vô sinh nguyên phát trong 3 năm. Bệnh sử của bệnh nhân như sau:

+ Tiền sử bạch cầu lympho cấp hơn 20 năm trước
+ Đang điều trị suy giáp
+ Đang điều trị đái tháo đường type I bằng Insulin

Chồng của bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ bình thường (mật độ tinh trùng: 40 triệu/ ml, hình dạng bình thường 4%). Bệnh nhân được điều trị vô sinh bằng kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm. Chọc hút noãn được thực hiện vào lúc 35,5 giờ sau mũi hCG. 10 noãn thu nhận được vào thời điểm chọc hút, có 5 noãn trưởng thành sau 24h nuôi cấy và thêm 3 noãn trưởng thành sau khi nuôi cấy kéo dài 48h. Tổng cộng bệnh nhân có 1 phôi ngày 3 loại I và 1 phôi ngày 2 loại 2. Bệnh nhân được tư vấn chuyển 1 phôi ngày 3 chất lượng tốt vào trong tử cung. Bệnh nhân có thai và hoàn toàn không có biến chứng cho đến những tuần cuối của thai kỳ. Bệnh nhân được chẩn đoán bị ứ mật trong thời gian ngắn trước khi sinh. Tình trạng của bệnh nhân đã ổn định sau khi dùng axit ursodeoxycholic và các triệu chứng của cô đã hồi phục sau khi sinh. Bệnh nhân sinh mổ một bé gái, ở tuổi thai 38 tuần và 3 ngày. Cân nặng của bé là 4240 gram khi sinh. Mẹ và em bé được xuất viện mà không có biến chứng nào.

Bệnh nhân thứ hai (D.A., 29 tuổi), có tiền sử vô sinh nguyên phát 8 năm. Cô đã được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng khoảng 5 năm trước khi nhập viện. Cô cũng bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Bệnh nhân có thực hiện kích thích buồng trứng trong một chu kỳ điều trị bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) và phải trải qua một thời gian bị mất thị lực một phần do tác dụng của việc sử dụng hormon kích thích buồng trứng. Chồng của bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ bình thường (mật độ tinh trùng: 55 triệu/ml, hình dạng bình thường 4%). Bệnh nhân được tư vấn điều trị vô sinh bằng kỹ thuật IVM. 26 noãn thu nhận được vào thời điểm chọc hút, có 11 noãn trưởng thành sau 24h nuôi cấy và thêm 5 noãn trưởng thành sau khi nuôi cấy 48h. Tổng cộng bệnh nhân có 10 phôi ngày 3 và 2 phôi ngày 2. Bệnh nhân được tư vấn chuyển 3 phôi ngày 3, số phôi còn lại được trữ lạnh. Bệnh nhân có thai lâm sàng và được chẩn đoán mang song thai. Không có biến chứng thai kỳ được quan sát. Bệnh nhân sinh mổ hai bé gái ở tuổi thai 38 tuần 0 ngày (cân nặng 3090 gram và 2620 gram). Mẹ và các em bé được xuất viện mà không có bất kỳ biến chứng nào.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, kỹ thuật IVM hiện không chỉ là phương pháp điều trị thông thường và được xem là phương pháp điều trị thay thế cho nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản. Kỹ thuật IVM có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng bệnh nhân tương tự như IVF, và còn giúp bảo tồn khả năng sinh sản, kiểm soát nguy cơ quá kích buồng trứng (OHSS). Mối quan tâm ngày càng gia tăng của các bác sĩ thần kinh liên quan đến sự nguy hiểm tiềm ẩn của bệnh đa xơ cứng trong điều trị vô sinh hiếm muộn là nghiêng về việc tìm kiếm các phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả cho những bệnh nhân này. Michel và cộng sự năm 2012 đã quan sát thấy tỷ lệ tái phát bệnh đa xơ cứng tăng sau điều trị IVF. Dữ liệu của nhóm tác giả chứng minh rằng tái phát có liên quan đến việc sử dụng hormone GnRH và thất bại IVF. Trong một nghiên cứu gần đây từ Argentina (Hellwig và Correale, 2013), một chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệm có liên quan đến việc tăng gấp 7 lần nguy cơ tái phát lâm sàng. May mắn thay, mang thai làm giảm nguy cơ tái phát ở bệnh nhân mắc đa xơ cứng. Theo nghiên cứu của Houtchens và cộng sự, tỷ lệ điều chỉnh hàng tháng của tổng số tái phát đa xơ cứng là thấp nhất trong thai kỳ (Houtchens và cộng sự, năm 2018). Nồng độ estrogen tăng là một trong những thay đổi khác có vẻ giúp điều hòa miễn dịch, giúp bảo vệ chống lại đa xơ cứng trong suốt thời kỳ mang thai (Voskuhl và Momtazee, 2017). Trong suốt thời gian thai sản, tỷ lệ tái phát dự kiến ​​sẽ cao hơn thời gian tiền mang thai (Houtchens et al., 2018). May mắn thay, các bệnh nhân được trình bày đã không bị tái phát trong thời gian thai sản.

Hai bệnh nhân được báo cáo trong bài viết này, là những ví dụ thành công cho một cách tiếp cận khác với bệnh nhân bị bệnh đa xơ cứng. Một chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệm không sử dụng thuốc kích thích buồng trứng là một thay thế duy nhất cho phụ nữ vô sinh mắc bệnh đa xơ cứng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã trình bày hai bệnh nhân mắc đa xơ cứng và trải qua điều trị bằng kỹ thuật IVM, sinh thành công ba em bé khoẻ mạnh. Cho đến hiện nay, đây là ba em bé đầu tiên có mẹ bị đa xơ cứng được sinh ra từ kỹ thuật IVM trong y văn. Chúng tôi cho rằng IVM là một lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả đối với những bệnh nhân vô sinh mắc bệnh đa xơ cứng.

Từ khoá: Bệnh đa xơ cứng, trưởng thành noãn non trong ống nghiệm

Tài liệu tham khảo:
Bulent Gulekli, Muge Kovali Sezer, Sultan Seda Gungor, Hikmet Tunc Timur, Recep Emre Okyay, Egemen Idiman. In Vitro Maturation is a safer and successful treatment option in infertile women with multiple sclerosis. Reproductive BioMedicine Online (2020), doi: https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2020.02.009

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)

Năm 2020

Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế

Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024

Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK