Tin tức
on Tuesday 27-11-2018 10:09am
Danh mục: Tin quốc tế
Số lượng phôi lệch bội ngày càng tăng ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, làm giảm tỉ lệ làm tổ và tăng tỉ lệ sẩy thai. Trong những trường hợp này, bệnh nhân thường được tư vấn thực hiện kỹ thuật PGT-A nhằm tìm ra phôi nguyên bội để chuyển. Phôi của bệnh nhân được sinh thiết thu nhận tế bào TE để làm vật liệu phân tích di truyền. Một số nghiên cứu trước đây đã cho thấy sinh thiết phôi giai đoạn phôi phân chia gây giảm tỉ lệ làm tổ trong khi sinh thiết phôi nang cho tỉ lệ làm tổ tương tự như không sinh thiết phôi. Một số nghiên cứu khác cho thấy chất lượng TE có thể ảnh hưởng đến tiềm năng làm tổ của phôi và sinh thiết một lượng lớn tế bào TE có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ thai. Để đánh giá xem số lượng tế bào TE sinh thiết gây ảnh hưởng đến khả năng làm tổ của phôi ra sao, Luis Guzman và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này trên hai nhóm phôi sinh thiết: nhóm 1- sinh thiết khoảng 5 tế bào và nhóm 2- sinh thiết khoảng 10 tế bào.
Nghiên cứu hồi cứu trên những bệnh nhân thực hiện PGT-A từ 1/2013 đến 3/2016 với 482 phôi được chuyển trong chu kỳ chuyển đơn phôi. Các kết quả được phân tích dựa trên hình thái phôi tại thời điểm sinh thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tỉ lệ thai sinh hoá ở những phôi có chất lượng tốt và chất lượng kém ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 (79% với 64%) và (61% với 50%).
- Tỉ lệ thai lâm sàng đối với phôi chất lượng tốt và chất lượng kém ở nhóm 1 cũng cao hơn so với nhóm 2, lần lượt là (75% với 61%) và (59% với 47%).
- Độ tuổi của bệnh nhân không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng của nghiên cứu, nhóm 1 có tỉ lệ thai lâm sàng tương tự nhau ở 2 nhóm tuổi ≤ 35 và >35 tuổi (67% và 65%) và tỉ lệ này giảm đáng kể ở nhóm 2 khi so sánh trong 2 nhóm tuổi này (54% và 53%) .
- Tỉ lệ sẩy thai tương tự ở hai nhóm.
Như vậy nghiên cứu này đã cho thấy thu nhận một lượng lớn tế bào TE khi thực hiện sinh thiết phôi có thể gây tác động xấu đến tỉ lệ làm tổ của phôi. Điều này giúp chuyên viên phôi học có nhận định đúng hơn về số lượng tế bào TE cần lấy khi sinh thiết phôi. Nghiên cứu này còn chỉ ra rằng khi phôi đã làm tổ thì khả năng sẩy thai của các phôi là tương đương nhau.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: The number of biopsied trophectoderm cells may affect pregnancy outcomes. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. doi.org/10.1007/s10815-018-1331-1
Nghiên cứu hồi cứu trên những bệnh nhân thực hiện PGT-A từ 1/2013 đến 3/2016 với 482 phôi được chuyển trong chu kỳ chuyển đơn phôi. Các kết quả được phân tích dựa trên hình thái phôi tại thời điểm sinh thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tỉ lệ thai sinh hoá ở những phôi có chất lượng tốt và chất lượng kém ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 (79% với 64%) và (61% với 50%).
- Tỉ lệ thai lâm sàng đối với phôi chất lượng tốt và chất lượng kém ở nhóm 1 cũng cao hơn so với nhóm 2, lần lượt là (75% với 61%) và (59% với 47%).
- Độ tuổi của bệnh nhân không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng của nghiên cứu, nhóm 1 có tỉ lệ thai lâm sàng tương tự nhau ở 2 nhóm tuổi ≤ 35 và >35 tuổi (67% và 65%) và tỉ lệ này giảm đáng kể ở nhóm 2 khi so sánh trong 2 nhóm tuổi này (54% và 53%) .
- Tỉ lệ sẩy thai tương tự ở hai nhóm.
Như vậy nghiên cứu này đã cho thấy thu nhận một lượng lớn tế bào TE khi thực hiện sinh thiết phôi có thể gây tác động xấu đến tỉ lệ làm tổ của phôi. Điều này giúp chuyên viên phôi học có nhận định đúng hơn về số lượng tế bào TE cần lấy khi sinh thiết phôi. Nghiên cứu này còn chỉ ra rằng khi phôi đã làm tổ thì khả năng sẩy thai của các phôi là tương đương nhau.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: The number of biopsied trophectoderm cells may affect pregnancy outcomes. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. doi.org/10.1007/s10815-018-1331-1
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sốt xuât huyết trong thai kỳ và dị tật thần kinh bẩm sinh - Ngày đăng: 26-11-2018
Xây dựng thuật toán điều trị trên nhóm bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân dựa vào độ phân mảnh DNA tinh trùng - Ngày đăng: 23-11-2018
Lựa chọn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho những bệnh nhân lớn tuổi với số lượng noãn ít - Ngày đăng: 23-11-2018
Kỹ thuật sàng lọc phôi lệch bội giai đoạn tiền làm tổ (PGT-A) có tính hiệu quả - chi phí cao hơn, rút ngắn thời gian điều trị, giảm nguy cơ thất bại khi chuyển phôi và sẩy thai lâm sàng - Ngày đăng: 23-11-2018
Viêm nội mạc tử cung mạn tính: có phải là một yếu tố thất bại trong IVF? - Ngày đăng: 21-11-2018
Chế độ ăn uống và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 21-11-2018
Xác định mối tương quan giữa kích thước tiền nhân và tiềm năng hợp tử 1PN phát triển thành phôi nang - Ngày đăng: 21-11-2018
Nuôi cấy phôi liên tục cho tỉ lệ tạo phôi nang cao hơn nhưng tỉ lệ thai cộng dồn như nhau khi so với nuôi cấy chuyển tiếp: nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn - Ngày đăng: 21-11-2018
Chất lượng tinh trùng có thay đổi theo các mùa trong năm - Ngày đăng: 12-11-2018
Béo phì ở bé gái có liên hệ với tình trạng vô sinh khi trưởng thành - Ngày đăng: 12-11-2018
Tăng cân trong thai kỳ và sinh non - Ngày đăng: 13-11-2018
Thời gian kiêng xuất tinh ngắn: chiến lược tiềm năng trong cải thiện chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 12-11-2018
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK