Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 05-11-2018 8:39am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
Các nghiên cứu đã cho thấy phôi phát triển chậm có thể làm giảm tỷ lệ có thai, đây có thể là yếu tố chỉ thị cho sự giảm chất lượng phôi hoặc khả năng dị bội. Chúng cũng có thể dẫn đến sự không đồng bộ giữa phôi và nội mạc tử cung, làm giảm khả năng làm tổ của phôi. Sự tăng progesterone (P4) sớm có tác động làm giảm tỷ lệ sinh sống ở các chu kỳ hỗ trợ sinh sản (HTSS) sử dụng noãn tự thân, có thể do sự không đồng bộ giữa phôi và nội mạc tử cung. Có rất ít nghiên cứu đánh giá tác động của sự tăng P4 vào ngày gây trưởng thành noãn lên tỷ lệ sinh sống của những ca được chuyển phôi ngày 5 so với ngày 6.

Nghiên cứu này hồi cứu dữ liệu từ 4120 bệnh nhân được chuyển phôi ngày 5 và 230 bệnh nhân chuyển phôi ngày 6, sử dụng noãn tự thân, từ năm 2011 đến năm 2014. 

Trong đó, bệnh nhân được chuyển phôi ngày 6 có ít phôi tốt hơn (73% so với 83%, p<0.001) nhưng tỷ lệ phôi nang được chuyển là tương đương giữa 2 nhóm (92% so với 91%, p=0.92). Tỷ lệ sinh sống ở nhóm chuyển phôi ngày 6 (CPN6) thấp hơn nhóm được chuyển phôi vào ngày 5 (CPN5) (34% so với 46%, p=0.01). 

Phân tích số liệu cho thấy nồng độ P4 cao hơn 1.5 ng/ml vào ngày gây trưởng thành noãn có tác động rõ rệt ở nhóm CPN6 so với CPN5 (p<0.001). Tỷ lệ sinh sống ở nhóm CPN6 chỉ thấp hơn 8% so với CPN5 ở nhóm có P4 bình thường nhưng sự chênh lệch này tăng lên 17% khi P4 cao hơn 1.5 ng/ml. Mối tương quan phân tích được giữa nồng độ P4 và ngày chuyển phôi được chứng minh là có ý nghĩa thống kê, cho thấy P4 có tác động rõ rệt lên việc chuyển phôi vào ngày 6. Trong các chu kỳ chọc hút có P4 cao, phôi sau đó được trữ lạnh và chuyển phôi trữ không cho thấy sự khác biệt giữa nhóm N5 và N6. 

Nghiên cứu này đã chỉ ra được sự không đồng bộ giữa phôi và nội mạc tử cung khi phôi phát triển chậm có thể là những nguyên nhân kết hợp để dẫn tới giảm tỷ lệ sinh sống. Ngoài ra, sự tăng P4 sớm còn là một nhân tố tiên đoán cho sự giảm tỷ lệ sinh sống ở bệnh nhân được CPN6. Cần có những nghiên cứu khác về khả năng cải thiện ảnh hưởng của nồng độ P4 cao vào ngày gây trưởng thành noãn lên nhóm phôi phát triển chậm bằng cách trữ phôi sau đó chuyển phôi sau trữ lạnh – rã đông.

Lâm Thị Mỹ Hậu
Chuyên viên phôi học - IVFMD Tân Bình - Bệnh viện Đa khoa Mỹ Đức Tân Bình

Nguồn: Mae Wu Healy, Meghan Yamasaki, George Patounaki, Kevin S. Richter, Kate Devine, Alan H. DeCherney, and Micah J. Hill1. The slow growing embryo and premature progesterone elevation: compounding factors for embryo-endometrial asynchrony, Human Reproduction, pp. 1–6, 2016 doi:10.1093/humrep/dew296.
 

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK