Tin chuyên ngành
on Monday 13-10-2014 3:40pm
Danh mục: Phụ khoa
TS. Lê Thị Thu Hà
Bệnh viện Từ Dũ
GIỚI THIỆU
Ung thư buồng trứng là bệnh lý ác tính đứng hàng thứ 2 và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do ung thư phụ khoa ở Hoa Kỳ. Ung thư biểu mô buồng trứng (UTBMBT) là loại ung thư thường gặp nhất (chiếm 95%) của ung thư buồng trứng. Chẩn đoán xác định ung thư buồng trứng đòi hỏi phẫu thuật, tuy nhiên, nhiều phương thức được thực hiện để xác định tính chất u lành hay ác.
Những dấu ấn sinh học để chẩn đoán UTBMBT đã được sử dụng và vẫn còn là lĩnh vực đang được nghiên cứu. CA 125 đã được nghiên cứu nhiều nhất và được dùng rộng rãi. Những dấu ấn sinh học khác như Human Epididymis Protein (HEA), OVA1 panel và Risk of Malignancy Algorithm (ROMA) được dùng trong chẩn đoán UTBMBT.
Có bằng chứng là ung thư thanh dịch buồng trứng grade cao, ung thư ống dẫn trứng và ung thư biểu mô phúc mạc cần được xem xét như một dạng lâm sàng, do có cùng biểu hiện lâm sàng và cách điều trị. Ngoài ra, còn có nhiều bằng chứng của một bệnh sinh chung cho các loại ung thư này. Trong chuyên đề này sẽ sử dụng thuật ngữ UTBMBT để chỉ nhóm các khối u ác tính đã nêu. Hiện nay, chưa có dấu ấn sinh học trong huyết thanh có thể phân biệt giữa các loại ung thư trên.
THUẬT NGỮ
Định nghĩa chung của một dấu ấn sinh học là bất kỳ dấu hiệu sinh học nào của bệnh. Một dấu ấn khối u là một dấu ấn sinh học chuyên biệt cho bệnh lý ác tính. Bộ Y tế Hoa Kỳ định nghĩa một dấu ấn sinh học là "một đặc tính được đo một cách khách quan và được đánh giá là một chỉ số của các tiến trình sinh học bình thường, tiến trình sinh bệnh hoặc đáp ứng dược lý với một can thiệp điều trị". Đối với UTBMBT, điều này có thể bao gồm các triệu chứng bệnh, khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh hoặc các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Những dấu ấn sinh học UTBMBT đã được xác định trong huyết thanh, nước tiểu, dịch u nang buồng trứng, dịch cổ trướng và chất dịch cơ thể khác. Trong chủ đề này, các dấu ấn sinh học sẽ đề cập đặc biệt đến những dấu ấn sinh học trong huyết thanh.
TỔNG QUAN
UTBMBT có những thách thức trong chẩn đoán. UTBMBT thường được chẩn đoán ở giai đoạn cuối, góp phần vào tiên lượng xấu của bệnh. Những khó khăn trong chẩn đoán phân biệt giữa lành tính và ác tính của những khối u phần phụ đã dẫn đến nhiều phương thức phẫu thuật phức tạp được đề ra và cuối cùng được xác định là lành tính.
Hạch liên quan hoặc di căn xa xuất hiện trong 78% phụ nữ với UTBMBT tại thời điểm chẩn đoán, với tỉ lệ sống sót sau năm năm chỉ có khoảng 30% hoặc thấp hơn (so với khoảng 80-90% phụ nữ bị bệnh chỉ giới hạn ở buồng trứng). Các triệu chứng của ung thư buồng trứng thường xuất hiện nhưng thường không đặc hiệu và thường không cho kết quả chẩn đoán ở giai đoạn đầu.
Chẩn đoán xác định ung thư buồng trứng đòi hỏi phẫu thuật và nhiều phương thức thực hiện để đánh giá một khối u vùng chậu, cuối cùng kết quả là u lành tính. Ví dụ, một nghiên cứu ngẫu nhiên tầm soát ung thư buồng trứng trong với cỡ mẫu lớn, 570 phụ nữ được đánh giá nghi ngờ ung thư buồng trứng, sau phẫu thuật chỉ có 20 trường hợp ác tính đã được tìm thấy (chiếm 3,5%). Vì vậy, việc tìm kiếm phương pháp để phân biệt ác tính và lành tính của khối u sẽ tránh phẫu thuật không cần thiết.
Hiện nay, không có dấu ấn sinh học trong huyết thanh nào có cả độ nhạy và độ chuyên biệt cao trong chẩn đoán UTBMBT. Do đó, các nhà điều tra đã kết hợp các dấu hiệu huyết thanh hoặc sử dụng các chiến lược đa dạng để cải thiện việc phát hiện các khối u ác tính.
ĐẶC TÍNH CỦA NHỮNG DẤU ẤN SINH HỌC
Dấu ấn sinh học riêng lẻ
CA 125 (Cancer Antigen 125) - sử dụng CA 125 như là một dấu ấn sinh học cho UTBMBT được mô tả đầu tiên vào năm 1983. CA 125 hiện là dấu ấn sinh học được sử dụng rộng rãi nhất cho UTBMBT và nó được sự chấp thuận của Hiệp hội Lương thực và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) để theo dõi đáp ứng điều trị ở phụ nữ được biết đến UTBMBT. CA 125 thường được sử dụng riêng lẻ để thẩm định khối u phần phụ hoặc kết hợp với các chỉ dấu sinh học trong huyết thanh và/hoặc siêu âm vùng chậu.
Gen cho CA 125 đã được nhân bản vào năm 2001 và được gọi là MUC16. CA 125 là một glycoprotein xuyên màng lớn bắt nguồn từ cả hai loại biểu mô coelomic (màng ngoài tim, màng phổi, màng bụng) và Müllerian (buồng trứng, ống dẫn trứng, nội mạc tử cung, tuyến cổ trong). Phức hợp kháng nguyên có hai phần chủ yếu: A và B. Một phần của miền ngoại bào bao gồm các trình tự lặp lại ràng buộc các OC125 và kháng thể đơn dòng M11. Bản gốc CA 125 thử nghiệm phản ứng với OC125 và mới hơn thử nghiệm CA 125 II – sử dụng cả hai OC125 và M11 moieties. Cả hai thử nghiệm thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Trong khi CA 125 II có thể đặc hiệu hơn, tuy nhiên, không có dữ liệu để chứng minh thử nghiệm nào ưu việt hơn. Các giá trị bình thường cho hai xét nghiệm là:
- CA 125: ≤35 U/mL.
- CA 125 II: <20 U/mL.
Những ngưỡng cut-off này vẫn có thay đổi đôi chút và có thể khác đối với phụ nữ tiền mãn kinh. Một số chuyên gia đã đề nghị giá trị bình thường có thể dao động 20-200 U/mL; sự dao động này có thể do những đặc tính lành tính thường gặp ở phụ nữ tiền mãn kinh, chẳng hạn như chu kỳ kinh nguyệt, u xơ tử cung hoặc rụng trứng.
Có rất nhiều xét nghiệm CA 125 và CA 125 II có tính thương mại và thực hành chẩn đoán dường như là những thử nghiệm tương tự. Những chuyên gia tư vấn cho rằng thực hiện thử nghiệm CA 125 nhiều lần trên một bệnh nhân nên làm cùng một bộ kít xét nghiệm và cùng một phòng xét nghiệm để tránh sự thay đổi không cần thiết trong các kết quả.
Protein mào tinh người 4 (Human Epididymis protein 4)
Thử nghiệm Human Epididymis protein 4 (HE4) đã được chấp thuận của FDA trong năm 2008 để theo dõi cho những trường hợp UTBMBT tái phát hoặc tiến triển. Nó cũng được sử dụng cho việc đánh giá một khối u phần phụ như là một thành phần của thuật toán nguy cơ ác tính (ROMA).
HE4 là một kháng nguyên có nguồn gốc từ protein mào tinh hoàn của con người, một sản phẩm của gen WFDC2 được biểu hiện quá mức ở bệnh nhân có ung thư buồng trứng dạng thanh dịch và dạng LNMTC.
Giới hạn trên của HE4 là ≤150pM. Giá trị này đại diện cho bách phân vị thứ 95 cho cả phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh và được báo cáo trong gói FDA cho Kit HE4 EIA.
Những dấu ấn sinh học khác
Carcinoembryonic Antigen
Carcinoembryonic Antigen (CEA) là một loại protein thường được tìm thấy trong các mô phôi thai hoặc thai nhi. Nồng độ CEA trong huyết thanh biến mất gần như hoàn toàn sau khi sinh, nhưng một lượng nhỏ có thể hiện diện ở đại tràng.
Ở người lớn, CEA có thể tăng trong khối u ác tính sản sinh ra protein, đặc biệt là ung thư nhầy liên quan đến đường tiêu hóa hoặc buồng trứng. CEA cũng có thể tăng lên trong các khối u ác tính sau:
- Vú.
- Tụy.
- Tuyến giáp.
- Phổi.
Những tình trạng lành tính kết hợp với một giá trị CEA cao bao gồm:
- Hút thuốc lá.
- U nang tuyến nhầy của buồng trứng hoặc ruột thừa.
- Viêm túi mật.
- Xơ gan.
- Viêm túi thừa.
- Bệnh viêm đường ruột.
- Viêm tụy.
- Nhiễm trùng phổi.
Xét nghiệm trong từng phòng xét nghiệm riêng biệt có thay đổi chút ít, nhưng giới hạn trên của mức bình thường điển hình cho CEA trong người không hút thuốc là 3,8 mcg/L. Đối với người hút thuốc, giới hạn trên của mức bình thường là 5,5 mcg/L.
Thử nghiệm CEA cũng có thể hữu ích trong việc theo dõi lâm sàng bệnh nhân viêm phúc mạc dịch nhầy, cho dù nguyên nhân là của một u lành hay ác tính.
Cancer Antigen 19-9
Cancer Antigen 19-9 (CA 19-9) là một protein nhầy tăng cao trong ung thư buồng trứng, ít được dùng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng. CA 19-9 ban đầu được dùng để theo dõi điều trị hoặc phát hiện ung thư tái phát trên những bệnh nhân bị ung thư dạ dày, tụy, túi mật, đường mật hoặc bóng Vater.
Những dấu ấn sinh học đang được nghiên cứu như: nhiều dấu ấn sinh học cho ung thư buồng trứng đang được nghiên cứu. Osteopontin, mesothelin, LPA (Lysophosphatidic Acid), haptoglobin, transthyretin, apolipoprotein A1, serum C-reactive protein và OVX1.
Tấm dấu ấn sinh học và những thử nghiệm đa phương thức (biomarker panels and multimodal tests)
OVA1
OVA1 là 1 thử nghiệm bao gồm 5 dấu ấn sinh học trong huyết thanh. OVA1 đã được công nhận bởi FDA vào năm 2009 để đánh giá thêm về khả năng ác tính của khối u phần phụ trên những phụ nữ có kế hoạch phẫu thuật. OVA1 gồm 2 up-regulated (CA125 II và beta-2-microglobulin) và 3 down-regulated (transferrin, transthyretin và apolipoprotein A1).
Có phần mềm tính toán kết hợp các giá trị của thử nghiệm và dùng lược đồ OVA1 để đưa ra điểm số nguy cơ ác tính của u buồng trứng.
Phụ nữ chưa mãn kinh
- OVA1 <5,0: ít khả năng ác tính.
- OVA1 ≥5,0: nguy cơ cao bị ác tính.
Phụ nữ đã mãn kinh
- OVA1 <4,4: khả năng ác tính thấp.
- OVA1 ≥4,4: khả năng ác tính cao.
Có nhiều xét nghiệm bị ảnh hưởng nếu nồng độ triglyceride trên 4,5 g/L hay rheumatoid fartor ≥250 IU/mL. Thông tin này được cung cấp chủ yếu để hỗ trợ trong việc giải thích kết quả xét nghiệm.
Thuật toán nguy cơ ác tính
Thuật toán nguy cơ ác tính (The Risk of Malignancy Algorithm – ROMA) bao gồm CA 125 and HE4. ROMA được công nhận bởi FDA (2011) để đánh giá hơn nữa khả năng ác tính của khối u phần phụ trên những bệnh nhân có kế hoạch phẫu thuật. ROMA có tính quốc tế.
ROMA sử dụng CA 125 và HE4 và diễn giải kết quả bằng cách sử dụng hai thuật toán hồi qui logistic riêng biệt, tùy thuộc vào tình trạng mãn kinh. Các thuật toán không phải là độc quyền và có thể được xác định với một máy tính, thông qua các trang web hoặc trên các ứng dụng trên điện thoại thông minh.
Một điểm số ROMA được báo cáo:
- Phụ nữ chưa mãn kinh nguy cơ ác tính cao khi ROMA ≥13,1%.
- Phụ nữ đã mãn kinh nguy cơ ác tính cao khi ROMA ≥27,7%.
Chỉ số nguy cơ ác tính
Chỉ số nguy cơ ác tính (Risk of Malignancy Index – RMI) đã được phát triển vào năm 1990 và là một sự kết hợp nhiều yếu tố: CA 125, siêu âm vùng chậu và mãn kinh vào một số chỉ số để dự đoán nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ có khối u phần phụ.
RMI được sử dụng chủ yếu ở Vương quốc Anh. Tính toán cho RMI I được hướng dẫn bởi the United Kingdom National Institute for Health and Clinical Excellence (NICE):
- RMI I là một sản phẩm của siêu âm (U), tình trạng mãn kinh (M) và CA 125 trong huyết thanh (RMI I = U x M x CA 125). Các hướng dẫn của NICE khuyến cáo tất cả phụ nữ với điểm số RMI I ≥200 nên được giới thiệu đến một chuyên gia.
- Kết quả siêu âm được ghi 1 điểm cho mỗi đặc điểm sau: đa thùy, có vùng u đặc, di căn, dịch ổ bụng, và u 2 bên. U=0 cho điểm số siêu âm 0 điểm, U=1 cho điểm số siêu âm 1 điểm, U=3 cho điểm số siêu âm 2-5 điểm.
- Tình trạng mãn kinh được tính 1 điểm trước mãn kinh và 3 điểm sau mãn kinh. "Sau mãn kinh" được định nghĩa là không có kinh hơn một năm hoặc một người phụ nữ đã cắt tử cung trên 50 tuổi.
- CA 125 được đo bằng IU/mL.
Một số sửa đổi RMI từ khi được đề xuất (các phiên bản được gọi là RMI I đến IV), trong đó, liên quan đến việc gán các giá trị khác nhau cho mỗi biến. Ví dụ, trong RMI II, số điểm là 1 cho trước tiền mãn kinh và 4 cho tình trạng mãn kinh và số điểm siêu âm được thể hiện từ 1 đến 4.
Những tấm dấu ấn sinh học khác
Những tấm dấu ấn sinh học trong huyết thanh khác đã được nghiên cứu để sử dụng trong sàng lọc ung thư buồng trứng, nhưng không phải cho việc đánh giá phụ nữ với khối u phần phụ hoặc các triệu chứng liên quan đến ung thư buồng trứng.
HIỆU SUẤT CHẨN ĐOÁN
CA 125
Nồng độ CA 125 trong huyết thanh là thử nghiệm cận lâm sàng được dùng thường nhất để đánh giá khối u phần phụ có bị UTBMBT hay không, nhưng thử nghiệm này có vài thiếu sót. Thực hiện chẩn đoán của CA 125 bị giới hạn, đặc biệt trong trường hợp bệnh ở giai đoạn sớm. Ngoài ra, nó hữu dụng trong những phụ nữ sau mãn kinh.
CA 125 riêng lẻ có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, đặc biệt trong ung thư giai đoạn sớm. Độ đặc hiệu thấp trong phụ nữ trước mãn kinh. Trong 1 phân tích gộp gồm 77 nghiên cứu, CA 125 cao (>35 U/mL) có độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 78%. Một yếu tố hạ thấp độ nhạy là CA 125 được sản xuất không hằng định bởi vài loại mô học của ung thư biểu mô buồng trứng, bao gồm: nhầy, tế bào sáng và u buồng trứng Müllerian hỗn hợp. Đối với giai đoạn sớm của ung thư, vài nghiên cứu đã báo cáo độ nhạy trải rộng 25-75% ở giai đoạn I và 61-96% ở giai đoạn II.
Hiệu suất của CA 125 trong mãn kinh so với phụ nữ tiền mãn kinh đã được chứng minh trong một phân tích gộp khác. Trong số sáu nghiên cứu nhận thấy CA 125 cao (>35 U/mL); ở phụ nữ mãn kinh, độ nhạy đối với ung thư buồng trứng là 69-87%, độ đặc hiệu là 81-93%; đối với phụ nữ tiền mãn kinh, độ nhạy là 50-74%, độ đặc hiệu là 69-78% (một nghiên cứu báo cáo độ đặc hiệu là 92%). Độ đặc hiệu thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh là do CA 125 cao cũng được liên kết với nhiều điều kiện khác với UTBMBT và nhiều trong số này được tìm thấy ở những bệnh nhân độ tuổi sinh sản.
Ngoài sự kết hợp của CA 125 cao trong các điều kiện khác hơn UTBMBT, nồng độ CA 125 trong huyết thanh có thể thay đổi do các yếu tố khác (ví dụ, trong ung thư tuyến tiền liệt, phổi, đại trực tràng và ung thư buồng trứng (PLCO)). Thử nghiệm sàng lọc của hơn 25.000 phụ nữ, phụ nữ không bị ung thư buồng trứng, nồng độ CA 125 cao (được định nghĩa là ≥35 U/mL) gia tăng đáng kể ở phụ nữ tuổi 60 tuổi trở lên (so với lứa tuổi 55 đến 59) và ở những người có tiền sử hút thuốc lá. Ngoài ra, mức độ CA 125 cao ít gặp ở những phụ nữ bị béo phì (chỉ số khối cơ ≥30 kg/m2) hoặc đã cắt bỏ tử cung trước đó.
Dựa trên hiệu suất chẩn đoán kém của CA 125 ở phụ nữ tiền mãn kinh, đã có một số cuộc thảo luận về ngưỡng CA 125 cao hơn là ngưỡng nghi ngờ bệnh ác tính. CA 125 trong huyết thanh >200 U/mL đã được sử dụng như một tiêu chuẩn để giới thiệu đến một bác sĩ ung thư phụ khoa cho phụ nữ tiền mãn kinh trong Guidelines của ACOG (2002). Một nghiên cứu hồi cứu của phụ nữ với khối u vùng chậu tại các trung tâm chăm sóc đại học phát hiện ra rằng để chẩn đoán ung thư buồng trứng ở phụ nữ >50 tuổi, CA 125 >200 U/mL có giá trị tiên đoán dương tính là 70% và giá trị tiên đoán âm 85%; sự kết hợp của tất cả các tiêu chí trong các hướng dẫn có độ nhạy 70%.
OVA1
Các thử nghiệm OVA1 là một bảng gồm năm dấu ấn sinh học trong huyết thanh đã được giới thiệu trong năm 2009. Nó được sử dụng để đánh giá hơn nữa về khả năng ác tính ở những phụ nữ đang có kế hoạch phẫu thuật cho một khối u phần phụ. OVA1 không được nghiên cứu để sàng lọc ung thư buồng trứng.
Nghiên cứu lớn nhất của OVA1 là một loạt nghiên cứu tiền cứu bao gồm 524 phụ nữ được lên kế hoạch phẫu thuật cho một khối u buồng trứng. Nghiên cứu so sánh hiệu suất chẩn đoán của OVA1 với CA 125 riêng lẻ (giá trị ngưỡng được sử dụng là >200 U/mL đối với phụ nữ tiền mãn kinh và >35 U/mL đối với phụ nữ sau mãn kinh) và sự đánh giá của bác sĩ (dựa vào bệnh sử, khám lâm sàng, hình ảnh và CA 125). Đối với chẩn đoán của một bệnh ác tính buồng trứng, OVA1 có độ nhạy tốt hơn so với các phương pháp đo khác, nhưng độ đặc hiệu thấp hơn so với CA 125 riêng lẻ. Kết quả như sau: OVA1 có độ nhạy là 93%, độ đặc hiệu 43%; CA 125 có độ nhạy 69%, độ đặc hiệu 84%; và sự đánh giá của bác sĩ có độ nhạy 75%, độ đặc hiệu 79%. Sự kết hợp của OVA1 và đánh giá bác sĩ có độ nhạy 96% và độ đặc hiệu 35%.
Kết quả cũng được phân tầng theo tình trạng mãn kinh và giai đoạn cho OVA1 so với CA 125. Theo tình trạng mãn kinh, độ nhạy cho UTBMBT như sau: tiền mãn kinh. (OVA1: 96%; CA 125: 56%) và sau mãn kinh (OVA1: 100%; CA 125: 92%). Ngoài ra, OVA1 có độ nhạy cao hơn so với CA 125 trong chẩn đoán ung thư buồng trứng nguyên phát ở giai đoạn I hoặc II, đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh (82% so với 29%, tương ứng). Độ đặc hiệu của OVA1 cho bệnh ác tính buồng trứng là 52% cho tiền mãn kinh và 33% cho phụ nữ mãn kinh.
Thuật toán nguy cơ ác tính (ROMA)
Risk of Malignancy Algorithm (ROMA) gồm huyết thanh CA 125 và giá trị HE4 được tính trong một thuật toán bao gồm tình trạng mãn kinh.
Các kết quả của một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm gồm 531 bệnh nhân được coi là có nguy cơ ung thư buồng trứng cao (chiếm 24%) ban đầu được đánh giá theo mô hình này, có độ nhạy với ung thư buồng trứng là 92% đối với phụ nữ sau mãn kinh và 76% đối với phụ nữ tiền mãn kinh. Trong quần thể có nguy cơ thấp hơn, các nhà nghiên cứu về ROMA thực hiện một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm gồm 472 phụ nữ (tỉ lệ mắc ung thư buồng trứng 10%). Trong nhóm có nguy cơ thấp, độ nhạy của ROMA là 92%, độ đặc hiệu là 76% ở phụ nữ mãn kinh và tương ứng 100% và 74% ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Một phân tích gộp 11 nghiên cứu phụ nữ với một khối u vùng chậu cho thấy độ nhạy chung của ROMA cho UTBMBT là 89% và độ đặc hiệu là 83%; chẩn đoán UTBMBT giai đoạn sớm, độ nhạy là 81% và độ đặc hiệu là 76%; đối với phụ nữ tiền mãn kinh, độ nhạy là 82% và độ đặc hiệu là 82%; đối với phụ nữ sau mãn kinh, độ nhạy là 93% và độ đặc hiệu là 79%.
Khi ROMA, HE4 và CA 125 được so sánh, ROMA là nhạy nhất (ROMA: 86%; HE4: 80%; CA 125: 84%) và HE4 là đặc hiệu nhất (ROMA: 84%; HE4: 94%; CA 125: 78%), tuy nhiên, những khác biệt này là không có ý nghĩa thống kê. Phân tích này không bao gồm một nghiên cứu của 389 phụ nữ thấy rằng sự kết hợp của HE4 và CA 125 (ROMA) không cải thiện hiệu suất chẩn đoán so với từng dấu ấn riêng lẻ.
RMI là một điểm số gồm nhiều yếu tố kết hợp huyết thanh CA 125, siêu âm vùng chậu và tình trạng mãn kinh.
Một tổng quan hệ thống của 109 nghiên cứu đánh giá RMI từ I đến IV so với 79 hệ thống tính điểm dự đoán ung thư buồng trứng khác. RMI I và II (sử dụng điểm cắt 200) có hiệu suất chẩn đoán tốt nhất: RMI I (độ nhạy: 78%; độ đặc hiệu: 87%) và RMI II (độ nhạy: 79%; độ đặc hiệu: 81%). Kết quả tương tự đã được báo cáo trong một phân tích gộp gồm 66 nghiên cứu, với sự khác biệt đáng chú ý duy nhất là độ đặc hiệu của RMI II là 89%.
Ưu điểm của hệ thống RMI so với các thử nghiệm dấu ấn sinh học trong huyết thanh khác là nó kết hợp ba yếu tố lâm sàng quan trọng nhất trong việc dự đoán nguy cơ ác tính của khối u buồng trứng. Ngược lại, các thách thức đối với RMI là công thức bao gồm giá trị CA 125 thực sự (chứ không phải gán một giá trị điểm đến phạm vi khác nhau của CA 125). Điều này có thể có vấn đề trong các bệnh ung thư giai đoạn đầu và ở phụ nữ tiền mãn kinh, khi mức độ CA 125 thường là sai lầm.
TIẾP CẬN LÂM SÀNG
Các dấu ấn sinh học trong huyết thanh được sử dụng như một phần của việc đánh giá cho sự ác tính ở phụ nữ có khối u phần phụ. Đánh giá này cũng bao gồm bệnh sử, khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Các bác sĩ sử dụng thông tin này để chẩn đoán lâm sàng một khối u là ác tính. Dựa trên điều này, các bác sĩ quyết định xem bệnh nhân có cần phải phẫu thuật để chẩn đoán tiếp tục giám sát. Đối với khối u rất đáng nghi ngờ như ung thư buồng trứng, nên giới thiệu bệnh nhân đến bác sĩ ung thư phụ khoa.
Phụ nữ với khối u phần phụ
Mức độ nghi ngờ đối với khối u phần phụ ác tính dựa trên tất cả các thông tin lâm sàng có sẵn, bao gồm: sự xuất hiện của khối u trên hình ảnh, bằng chứng của di căn, tình trạng mãn kinh, yếu tố nguy cơ, thử nghiệm dấu ấn sinh học và các triệu chứng. Các bác sĩ phải xác định để hoặc là tiến hành phẫu thuật thăm dò hoặc giới thiệu đến một bác sĩ ung thư phụ khoa thích hợp.
Quyết định tiến hành phẫu thuật
Quyết định có tiến hành phẫu thuật với một khối u phần phụ phụ thuộc chủ yếu vào chẩn đoán hình ảnh và các yếu tố khác hơn là dựa vào một thử nghiệm dấu ấn sinh học.
Dấu ấn sinh học duy nhất đã được nghiên cứu để sử dụng trong việc đánh giá ban đầu của một khối u phần phụ là CA 125, mặc dù điều này chưa được FDA chấp thuận. OVA1 và ROMA đã được nghiên cứu chỉ ở những phụ nữ đã được lên kế hoạch phẫu thuật và do đó, có thể có một tỉ lệ cao hơn của ung thư buồng trứng so với dân số nói chung của phụ nữ với khối u phần phụ. Trong trường hợp không có dữ liệu liên quan đến việc sử dụng OVA1 và ROMA trong việc đánh giá ban đầu của một khối u phần phụ, không nên sử dụng các xét nghiệm này để quyết định tiến hành phẫu thuật thăm dò cho một khối u phần phụ.
CA 125 cung cấp thêm thông tin hạn chế đến quyết định tiến hành phẫu thuật. Nó có độ nhạy chung thấp và đặc biệt để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm. Ngoài ra, nó có độ đặc hiệu thấp, đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Ở phụ nữ tiền mãn kinh, quyết định xem có nên tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ là một quyết định nan giải. Siêu âm vùng chậu có thể xác định khối u buồng trứng với đặc điểm của khối u ác tính, nhưng nhiều khối u lành tính ở phụ nữ trẻ cũng có hình thái buồng trứng phức tạp. Đối với một số phụ nữ, quyết định tiến hành phẫu thuật vẫn không chắc chắn, ngay cả sau khi xem xét kết quả siêu âm kết hợp với các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và thăm khám lâm sàng. Trong những trường hợp này, nhiều bác sĩ vẽ đường biểu diễn CA 125. Tuy nhiên, kết quả là thông tin rõ ràng chỉ khi CA 125 rất cao. Độ nhạy và độ đặc hiệu của CA 125 là thấp nói chung và đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh. Nhiều khối u lành tính được tìm thấy trong dân số này có liên quan đến nồng độ CA 125 hơi cao. Định nghĩa của một CA 125 rất cao cũng chưa được xác lập; mức CA 125 >200 U/mL đã được đề xuất nhưng còn ít dữ liệu hỗ trợ. Cuối cùng, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với một người phụ nữ tiền mãn kinh với khối u phần phụ có CA 125 rất cao hoặc không chắc chắn chẩn đoán.
Nguy cơ ung thư buồng trứng cao đáng kể đối với phụ nữ sau mãn kinh so với phụ nữ tiền mãn kinh. Phẫu thuật thăm dò thường được thực hiện cho hầu hết khối u buồng trứng phức tạp ở phụ nữ sau mãn kinh. Ngoại trừ những khối u có vẻ lành tính, khi ổn định về kích thước và đặc điểm (ví dụ như một khối u với đặc tính phù hợp với một u lạc nội mạc tử cung đã được ghi nhận trước thời kỳ mãn kinh). Những u nang buồng trứng với hình ảnh siêu âm đơn giản (một thùy, vách mỏng, phản âm trống), đường kính <10cm không có khả năng là ác tính. Trong thực hành lâm sàng, đối với các bệnh nhân mãn kinh bị u nang đơn giản, cần làm CA 125, nếu kết quả là <35 U/mL và không có triệu chứng hoặc các yếu tố nguy cơ liên quan với ung thư buồng trứng, nên theo dõi siêu âm nối tiếp hàng loạt.
Trước khi phẫu thuật thăm dò, CA 125 được xem là cơ sở để theo dõi đáp ứng điều trị nếu ung thư buồng trứng được chẩn đoán cuối cùng.
Giới thiệu đến một bác sĩ chuyên ung thư phụ khoa
Khi quyết định tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ đã được thực hiện, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với những trường hợp có nhiều khả năng ung thư buồng trứng.
Theo các chứng cứ hiện có, khuyến cáo nên dùng OVA1 hoặc ROMA hơn là CA 125 để quyết định giới thiệu một bệnh nhân đang lên kế hoạch để đánh giá phẫu thuật khối u phần phụ đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa. Tính sẵn sàng và chi phí của thử nghiệm có thể là yếu tố để chỉ định thử nghiệm nào là thích hợp nhất cho từng tình huống lâm sàng.
TÓM TẮT VÀ KHUYẾN NGHỊ
- Ung thư buồng trứng là khối u ác tính phụ khoa phổ biến thứ hai và nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư phụ khoa tại Hoa Kỳ. UTBMBT là loại mô học phổ biến nhất của ung thư buồng trứng và thường được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển.
- Sử dụng các dấu ấn sinh học trong huyết thanh để chẩn đoán UTBMBT là một lĩnh vực hoạt động nghiên cứu. Các dấu ấn sinh học hoặc các tấm của dấu ấn sinh học thường được sử dụng kết hợp với nhau hoặc với những dấu hiệu khác (ví dụ như siêu âm).
- Những dấu ấn sinh học hiện có bao gồm: CA 125, HE4, OVA1, ROMA) và RMI.
- CA 125 là thử nghiệm thường được sử dụng cho việc đánh giá khối u phần phụ cho UTBMBT, tuy nhiên, thử nghiệm này có một vài thiếu sót. CA 125 riêng lẻ có độ nhạy thấp, đặc biệt là ung thư buồng trứng giai đoạn sớm và độ đặc hiệu chung thấp. Độ đặc hiệu là đặc biệt thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh.
- OVA1 là một bảng gồm năm dấu ấn sinh học trong huyết thanh đã được giới thiệu trong năm 2009. ROMA bao gồm huyết thanh CA 125 và giá trị HE4 được tính toán trong một thuật toán bao gồm tình trạng mãn kinh đã được giới thiệu vào năm 2011. Cả OVA1 và ROMA được dành cho sử dụng để đánh giá tiếp về khả năng ác tính ở những phụ nữ đang có kế hoạch phẫu thuật khối u phần phụ.
- Quyết định có tiến hành đánh giá phẫu thuật cho một phụ nữ với một khối u phần phụ phụ thuộc chủ yếu vào sự xuất hiện của hàng loạt trên hình ảnh và các yếu tố khác, chứ không phải dựa vào một thử nghiệm dấu ấn sinh học.
Khi quyết định tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ đã được thực hiện, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với những trường hợp có nhiều khả năng ung thư buồng trứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dorigo O, Berek JS (2011). Personalizing CA 125 levels for ovarian cancer screening. Cancer Prev Res (Phila); 4:1356.
2. Drapkin R, Von Horsten HH, Lin Y et al. (2005). Human epididymis protein 4 (HE4) is a secreted glycoprotein that is overexpressed by serous and endometrioid ovarian carcinomas. Cancer Res; 65:2162.
3. Geomini P, Kruitwagen R, Bremer GL et al. (2009). The accuracy of risk scores in predicting ovarian malignancy: a systematic review. Obstet Gynecol; 113:384.
4. Jacobs I, Oram D, Fairbanks J et al. (1990). A risk of malignancy index incorporating CA 125, ultrasound and menopausal status for the accurate preoperative diagnosis of ovarian cancer. Br J Obstet Gynaecol; 97:922.
5. Lacey JV, Sherman ME (2009). Ovarian neoplasia. In: Robboy's Pathology of the Female Reproductive Tract 2nd Ed, Robboy SL, Mutter GL, Prat J et al. (Eds) Churchill Livingstone Elsevier, Oxford 2009, 601.
6. Mongia SK, Rawlins ML, Owen WE, Roberts WL (2006). Performance characteristics of seven automated CA 125 assays. Am J Clin Pathol; 125:921.
7. Moore RG, McMeekin DS, Brown AK et al. (2009). A novel multiple marker bioassay utilizing HE4 and CA125 for the prediction of ovarian cancer in patients with a pelvic mass. Gynecol Oncol; 112:40.
8. Siegel R, Naishadham D, Jemal A (2012). Cancer statistics 2012. CA Cancer J Clin; 62:10.
9. Ueland FR, Desimone CP, Seamon LG et al. (2011). Effectiveness of a multivariate index assay in the preoperative assessment of ovarian tumors. Obstet Gynecol; 117:1289.
10. Van Gorp T, Cadron I, Despierre E et al. (2011). HE4 and CA125 as a diagnostic test in ovarian cancer: prospective validation of the Risk of Ovarian Malignancy Algorithm. Br J Cancer; 104:863.
Bệnh viện Từ Dũ
GIỚI THIỆU
Ung thư buồng trứng là bệnh lý ác tính đứng hàng thứ 2 và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do ung thư phụ khoa ở Hoa Kỳ. Ung thư biểu mô buồng trứng (UTBMBT) là loại ung thư thường gặp nhất (chiếm 95%) của ung thư buồng trứng. Chẩn đoán xác định ung thư buồng trứng đòi hỏi phẫu thuật, tuy nhiên, nhiều phương thức được thực hiện để xác định tính chất u lành hay ác.
Những dấu ấn sinh học để chẩn đoán UTBMBT đã được sử dụng và vẫn còn là lĩnh vực đang được nghiên cứu. CA 125 đã được nghiên cứu nhiều nhất và được dùng rộng rãi. Những dấu ấn sinh học khác như Human Epididymis Protein (HEA), OVA1 panel và Risk of Malignancy Algorithm (ROMA) được dùng trong chẩn đoán UTBMBT.
Có bằng chứng là ung thư thanh dịch buồng trứng grade cao, ung thư ống dẫn trứng và ung thư biểu mô phúc mạc cần được xem xét như một dạng lâm sàng, do có cùng biểu hiện lâm sàng và cách điều trị. Ngoài ra, còn có nhiều bằng chứng của một bệnh sinh chung cho các loại ung thư này. Trong chuyên đề này sẽ sử dụng thuật ngữ UTBMBT để chỉ nhóm các khối u ác tính đã nêu. Hiện nay, chưa có dấu ấn sinh học trong huyết thanh có thể phân biệt giữa các loại ung thư trên.
THUẬT NGỮ
Định nghĩa chung của một dấu ấn sinh học là bất kỳ dấu hiệu sinh học nào của bệnh. Một dấu ấn khối u là một dấu ấn sinh học chuyên biệt cho bệnh lý ác tính. Bộ Y tế Hoa Kỳ định nghĩa một dấu ấn sinh học là "một đặc tính được đo một cách khách quan và được đánh giá là một chỉ số của các tiến trình sinh học bình thường, tiến trình sinh bệnh hoặc đáp ứng dược lý với một can thiệp điều trị". Đối với UTBMBT, điều này có thể bao gồm các triệu chứng bệnh, khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh hoặc các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Những dấu ấn sinh học UTBMBT đã được xác định trong huyết thanh, nước tiểu, dịch u nang buồng trứng, dịch cổ trướng và chất dịch cơ thể khác. Trong chủ đề này, các dấu ấn sinh học sẽ đề cập đặc biệt đến những dấu ấn sinh học trong huyết thanh.
TỔNG QUAN
UTBMBT có những thách thức trong chẩn đoán. UTBMBT thường được chẩn đoán ở giai đoạn cuối, góp phần vào tiên lượng xấu của bệnh. Những khó khăn trong chẩn đoán phân biệt giữa lành tính và ác tính của những khối u phần phụ đã dẫn đến nhiều phương thức phẫu thuật phức tạp được đề ra và cuối cùng được xác định là lành tính.
Hạch liên quan hoặc di căn xa xuất hiện trong 78% phụ nữ với UTBMBT tại thời điểm chẩn đoán, với tỉ lệ sống sót sau năm năm chỉ có khoảng 30% hoặc thấp hơn (so với khoảng 80-90% phụ nữ bị bệnh chỉ giới hạn ở buồng trứng). Các triệu chứng của ung thư buồng trứng thường xuất hiện nhưng thường không đặc hiệu và thường không cho kết quả chẩn đoán ở giai đoạn đầu.
Chẩn đoán xác định ung thư buồng trứng đòi hỏi phẫu thuật và nhiều phương thức thực hiện để đánh giá một khối u vùng chậu, cuối cùng kết quả là u lành tính. Ví dụ, một nghiên cứu ngẫu nhiên tầm soát ung thư buồng trứng trong với cỡ mẫu lớn, 570 phụ nữ được đánh giá nghi ngờ ung thư buồng trứng, sau phẫu thuật chỉ có 20 trường hợp ác tính đã được tìm thấy (chiếm 3,5%). Vì vậy, việc tìm kiếm phương pháp để phân biệt ác tính và lành tính của khối u sẽ tránh phẫu thuật không cần thiết.
Hiện nay, không có dấu ấn sinh học trong huyết thanh nào có cả độ nhạy và độ chuyên biệt cao trong chẩn đoán UTBMBT. Do đó, các nhà điều tra đã kết hợp các dấu hiệu huyết thanh hoặc sử dụng các chiến lược đa dạng để cải thiện việc phát hiện các khối u ác tính.
ĐẶC TÍNH CỦA NHỮNG DẤU ẤN SINH HỌC
Dấu ấn sinh học riêng lẻ
CA 125 (Cancer Antigen 125) - sử dụng CA 125 như là một dấu ấn sinh học cho UTBMBT được mô tả đầu tiên vào năm 1983. CA 125 hiện là dấu ấn sinh học được sử dụng rộng rãi nhất cho UTBMBT và nó được sự chấp thuận của Hiệp hội Lương thực và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) để theo dõi đáp ứng điều trị ở phụ nữ được biết đến UTBMBT. CA 125 thường được sử dụng riêng lẻ để thẩm định khối u phần phụ hoặc kết hợp với các chỉ dấu sinh học trong huyết thanh và/hoặc siêu âm vùng chậu.
Gen cho CA 125 đã được nhân bản vào năm 2001 và được gọi là MUC16. CA 125 là một glycoprotein xuyên màng lớn bắt nguồn từ cả hai loại biểu mô coelomic (màng ngoài tim, màng phổi, màng bụng) và Müllerian (buồng trứng, ống dẫn trứng, nội mạc tử cung, tuyến cổ trong). Phức hợp kháng nguyên có hai phần chủ yếu: A và B. Một phần của miền ngoại bào bao gồm các trình tự lặp lại ràng buộc các OC125 và kháng thể đơn dòng M11. Bản gốc CA 125 thử nghiệm phản ứng với OC125 và mới hơn thử nghiệm CA 125 II – sử dụng cả hai OC125 và M11 moieties. Cả hai thử nghiệm thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Trong khi CA 125 II có thể đặc hiệu hơn, tuy nhiên, không có dữ liệu để chứng minh thử nghiệm nào ưu việt hơn. Các giá trị bình thường cho hai xét nghiệm là:
- CA 125: ≤35 U/mL.
- CA 125 II: <20 U/mL.
Những ngưỡng cut-off này vẫn có thay đổi đôi chút và có thể khác đối với phụ nữ tiền mãn kinh. Một số chuyên gia đã đề nghị giá trị bình thường có thể dao động 20-200 U/mL; sự dao động này có thể do những đặc tính lành tính thường gặp ở phụ nữ tiền mãn kinh, chẳng hạn như chu kỳ kinh nguyệt, u xơ tử cung hoặc rụng trứng.
Có rất nhiều xét nghiệm CA 125 và CA 125 II có tính thương mại và thực hành chẩn đoán dường như là những thử nghiệm tương tự. Những chuyên gia tư vấn cho rằng thực hiện thử nghiệm CA 125 nhiều lần trên một bệnh nhân nên làm cùng một bộ kít xét nghiệm và cùng một phòng xét nghiệm để tránh sự thay đổi không cần thiết trong các kết quả.
Protein mào tinh người 4 (Human Epididymis protein 4)
Thử nghiệm Human Epididymis protein 4 (HE4) đã được chấp thuận của FDA trong năm 2008 để theo dõi cho những trường hợp UTBMBT tái phát hoặc tiến triển. Nó cũng được sử dụng cho việc đánh giá một khối u phần phụ như là một thành phần của thuật toán nguy cơ ác tính (ROMA).
HE4 là một kháng nguyên có nguồn gốc từ protein mào tinh hoàn của con người, một sản phẩm của gen WFDC2 được biểu hiện quá mức ở bệnh nhân có ung thư buồng trứng dạng thanh dịch và dạng LNMTC.
Giới hạn trên của HE4 là ≤150pM. Giá trị này đại diện cho bách phân vị thứ 95 cho cả phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh và được báo cáo trong gói FDA cho Kit HE4 EIA.
Những dấu ấn sinh học khác
Carcinoembryonic Antigen
Carcinoembryonic Antigen (CEA) là một loại protein thường được tìm thấy trong các mô phôi thai hoặc thai nhi. Nồng độ CEA trong huyết thanh biến mất gần như hoàn toàn sau khi sinh, nhưng một lượng nhỏ có thể hiện diện ở đại tràng.
Ở người lớn, CEA có thể tăng trong khối u ác tính sản sinh ra protein, đặc biệt là ung thư nhầy liên quan đến đường tiêu hóa hoặc buồng trứng. CEA cũng có thể tăng lên trong các khối u ác tính sau:
- Vú.
- Tụy.
- Tuyến giáp.
- Phổi.
Những tình trạng lành tính kết hợp với một giá trị CEA cao bao gồm:
- Hút thuốc lá.
- U nang tuyến nhầy của buồng trứng hoặc ruột thừa.
- Viêm túi mật.
- Xơ gan.
- Viêm túi thừa.
- Bệnh viêm đường ruột.
- Viêm tụy.
- Nhiễm trùng phổi.
Xét nghiệm trong từng phòng xét nghiệm riêng biệt có thay đổi chút ít, nhưng giới hạn trên của mức bình thường điển hình cho CEA trong người không hút thuốc là 3,8 mcg/L. Đối với người hút thuốc, giới hạn trên của mức bình thường là 5,5 mcg/L.
Thử nghiệm CEA cũng có thể hữu ích trong việc theo dõi lâm sàng bệnh nhân viêm phúc mạc dịch nhầy, cho dù nguyên nhân là của một u lành hay ác tính.
Cancer Antigen 19-9
Cancer Antigen 19-9 (CA 19-9) là một protein nhầy tăng cao trong ung thư buồng trứng, ít được dùng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng. CA 19-9 ban đầu được dùng để theo dõi điều trị hoặc phát hiện ung thư tái phát trên những bệnh nhân bị ung thư dạ dày, tụy, túi mật, đường mật hoặc bóng Vater.
Những dấu ấn sinh học đang được nghiên cứu như: nhiều dấu ấn sinh học cho ung thư buồng trứng đang được nghiên cứu. Osteopontin, mesothelin, LPA (Lysophosphatidic Acid), haptoglobin, transthyretin, apolipoprotein A1, serum C-reactive protein và OVX1.
Tấm dấu ấn sinh học và những thử nghiệm đa phương thức (biomarker panels and multimodal tests)
OVA1
OVA1 là 1 thử nghiệm bao gồm 5 dấu ấn sinh học trong huyết thanh. OVA1 đã được công nhận bởi FDA vào năm 2009 để đánh giá thêm về khả năng ác tính của khối u phần phụ trên những phụ nữ có kế hoạch phẫu thuật. OVA1 gồm 2 up-regulated (CA125 II và beta-2-microglobulin) và 3 down-regulated (transferrin, transthyretin và apolipoprotein A1).
Có phần mềm tính toán kết hợp các giá trị của thử nghiệm và dùng lược đồ OVA1 để đưa ra điểm số nguy cơ ác tính của u buồng trứng.
Phụ nữ chưa mãn kinh
- OVA1 <5,0: ít khả năng ác tính.
- OVA1 ≥5,0: nguy cơ cao bị ác tính.
Phụ nữ đã mãn kinh
- OVA1 <4,4: khả năng ác tính thấp.
- OVA1 ≥4,4: khả năng ác tính cao.
Có nhiều xét nghiệm bị ảnh hưởng nếu nồng độ triglyceride trên 4,5 g/L hay rheumatoid fartor ≥250 IU/mL. Thông tin này được cung cấp chủ yếu để hỗ trợ trong việc giải thích kết quả xét nghiệm.
Thuật toán nguy cơ ác tính
Thuật toán nguy cơ ác tính (The Risk of Malignancy Algorithm – ROMA) bao gồm CA 125 and HE4. ROMA được công nhận bởi FDA (2011) để đánh giá hơn nữa khả năng ác tính của khối u phần phụ trên những bệnh nhân có kế hoạch phẫu thuật. ROMA có tính quốc tế.
ROMA sử dụng CA 125 và HE4 và diễn giải kết quả bằng cách sử dụng hai thuật toán hồi qui logistic riêng biệt, tùy thuộc vào tình trạng mãn kinh. Các thuật toán không phải là độc quyền và có thể được xác định với một máy tính, thông qua các trang web hoặc trên các ứng dụng trên điện thoại thông minh.
Một điểm số ROMA được báo cáo:
- Phụ nữ chưa mãn kinh nguy cơ ác tính cao khi ROMA ≥13,1%.
- Phụ nữ đã mãn kinh nguy cơ ác tính cao khi ROMA ≥27,7%.
Chỉ số nguy cơ ác tính
Chỉ số nguy cơ ác tính (Risk of Malignancy Index – RMI) đã được phát triển vào năm 1990 và là một sự kết hợp nhiều yếu tố: CA 125, siêu âm vùng chậu và mãn kinh vào một số chỉ số để dự đoán nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ có khối u phần phụ.
RMI được sử dụng chủ yếu ở Vương quốc Anh. Tính toán cho RMI I được hướng dẫn bởi the United Kingdom National Institute for Health and Clinical Excellence (NICE):
- RMI I là một sản phẩm của siêu âm (U), tình trạng mãn kinh (M) và CA 125 trong huyết thanh (RMI I = U x M x CA 125). Các hướng dẫn của NICE khuyến cáo tất cả phụ nữ với điểm số RMI I ≥200 nên được giới thiệu đến một chuyên gia.
- Kết quả siêu âm được ghi 1 điểm cho mỗi đặc điểm sau: đa thùy, có vùng u đặc, di căn, dịch ổ bụng, và u 2 bên. U=0 cho điểm số siêu âm 0 điểm, U=1 cho điểm số siêu âm 1 điểm, U=3 cho điểm số siêu âm 2-5 điểm.
- Tình trạng mãn kinh được tính 1 điểm trước mãn kinh và 3 điểm sau mãn kinh. "Sau mãn kinh" được định nghĩa là không có kinh hơn một năm hoặc một người phụ nữ đã cắt tử cung trên 50 tuổi.
- CA 125 được đo bằng IU/mL.
Một số sửa đổi RMI từ khi được đề xuất (các phiên bản được gọi là RMI I đến IV), trong đó, liên quan đến việc gán các giá trị khác nhau cho mỗi biến. Ví dụ, trong RMI II, số điểm là 1 cho trước tiền mãn kinh và 4 cho tình trạng mãn kinh và số điểm siêu âm được thể hiện từ 1 đến 4.
Những tấm dấu ấn sinh học khác
Những tấm dấu ấn sinh học trong huyết thanh khác đã được nghiên cứu để sử dụng trong sàng lọc ung thư buồng trứng, nhưng không phải cho việc đánh giá phụ nữ với khối u phần phụ hoặc các triệu chứng liên quan đến ung thư buồng trứng.
HIỆU SUẤT CHẨN ĐOÁN
CA 125
Nồng độ CA 125 trong huyết thanh là thử nghiệm cận lâm sàng được dùng thường nhất để đánh giá khối u phần phụ có bị UTBMBT hay không, nhưng thử nghiệm này có vài thiếu sót. Thực hiện chẩn đoán của CA 125 bị giới hạn, đặc biệt trong trường hợp bệnh ở giai đoạn sớm. Ngoài ra, nó hữu dụng trong những phụ nữ sau mãn kinh.
CA 125 riêng lẻ có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, đặc biệt trong ung thư giai đoạn sớm. Độ đặc hiệu thấp trong phụ nữ trước mãn kinh. Trong 1 phân tích gộp gồm 77 nghiên cứu, CA 125 cao (>35 U/mL) có độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 78%. Một yếu tố hạ thấp độ nhạy là CA 125 được sản xuất không hằng định bởi vài loại mô học của ung thư biểu mô buồng trứng, bao gồm: nhầy, tế bào sáng và u buồng trứng Müllerian hỗn hợp. Đối với giai đoạn sớm của ung thư, vài nghiên cứu đã báo cáo độ nhạy trải rộng 25-75% ở giai đoạn I và 61-96% ở giai đoạn II.
Hiệu suất của CA 125 trong mãn kinh so với phụ nữ tiền mãn kinh đã được chứng minh trong một phân tích gộp khác. Trong số sáu nghiên cứu nhận thấy CA 125 cao (>35 U/mL); ở phụ nữ mãn kinh, độ nhạy đối với ung thư buồng trứng là 69-87%, độ đặc hiệu là 81-93%; đối với phụ nữ tiền mãn kinh, độ nhạy là 50-74%, độ đặc hiệu là 69-78% (một nghiên cứu báo cáo độ đặc hiệu là 92%). Độ đặc hiệu thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh là do CA 125 cao cũng được liên kết với nhiều điều kiện khác với UTBMBT và nhiều trong số này được tìm thấy ở những bệnh nhân độ tuổi sinh sản.
Ngoài sự kết hợp của CA 125 cao trong các điều kiện khác hơn UTBMBT, nồng độ CA 125 trong huyết thanh có thể thay đổi do các yếu tố khác (ví dụ, trong ung thư tuyến tiền liệt, phổi, đại trực tràng và ung thư buồng trứng (PLCO)). Thử nghiệm sàng lọc của hơn 25.000 phụ nữ, phụ nữ không bị ung thư buồng trứng, nồng độ CA 125 cao (được định nghĩa là ≥35 U/mL) gia tăng đáng kể ở phụ nữ tuổi 60 tuổi trở lên (so với lứa tuổi 55 đến 59) và ở những người có tiền sử hút thuốc lá. Ngoài ra, mức độ CA 125 cao ít gặp ở những phụ nữ bị béo phì (chỉ số khối cơ ≥30 kg/m2) hoặc đã cắt bỏ tử cung trước đó.
Dựa trên hiệu suất chẩn đoán kém của CA 125 ở phụ nữ tiền mãn kinh, đã có một số cuộc thảo luận về ngưỡng CA 125 cao hơn là ngưỡng nghi ngờ bệnh ác tính. CA 125 trong huyết thanh >200 U/mL đã được sử dụng như một tiêu chuẩn để giới thiệu đến một bác sĩ ung thư phụ khoa cho phụ nữ tiền mãn kinh trong Guidelines của ACOG (2002). Một nghiên cứu hồi cứu của phụ nữ với khối u vùng chậu tại các trung tâm chăm sóc đại học phát hiện ra rằng để chẩn đoán ung thư buồng trứng ở phụ nữ >50 tuổi, CA 125 >200 U/mL có giá trị tiên đoán dương tính là 70% và giá trị tiên đoán âm 85%; sự kết hợp của tất cả các tiêu chí trong các hướng dẫn có độ nhạy 70%.
OVA1
Các thử nghiệm OVA1 là một bảng gồm năm dấu ấn sinh học trong huyết thanh đã được giới thiệu trong năm 2009. Nó được sử dụng để đánh giá hơn nữa về khả năng ác tính ở những phụ nữ đang có kế hoạch phẫu thuật cho một khối u phần phụ. OVA1 không được nghiên cứu để sàng lọc ung thư buồng trứng.
Nghiên cứu lớn nhất của OVA1 là một loạt nghiên cứu tiền cứu bao gồm 524 phụ nữ được lên kế hoạch phẫu thuật cho một khối u buồng trứng. Nghiên cứu so sánh hiệu suất chẩn đoán của OVA1 với CA 125 riêng lẻ (giá trị ngưỡng được sử dụng là >200 U/mL đối với phụ nữ tiền mãn kinh và >35 U/mL đối với phụ nữ sau mãn kinh) và sự đánh giá của bác sĩ (dựa vào bệnh sử, khám lâm sàng, hình ảnh và CA 125). Đối với chẩn đoán của một bệnh ác tính buồng trứng, OVA1 có độ nhạy tốt hơn so với các phương pháp đo khác, nhưng độ đặc hiệu thấp hơn so với CA 125 riêng lẻ. Kết quả như sau: OVA1 có độ nhạy là 93%, độ đặc hiệu 43%; CA 125 có độ nhạy 69%, độ đặc hiệu 84%; và sự đánh giá của bác sĩ có độ nhạy 75%, độ đặc hiệu 79%. Sự kết hợp của OVA1 và đánh giá bác sĩ có độ nhạy 96% và độ đặc hiệu 35%.
Kết quả cũng được phân tầng theo tình trạng mãn kinh và giai đoạn cho OVA1 so với CA 125. Theo tình trạng mãn kinh, độ nhạy cho UTBMBT như sau: tiền mãn kinh. (OVA1: 96%; CA 125: 56%) và sau mãn kinh (OVA1: 100%; CA 125: 92%). Ngoài ra, OVA1 có độ nhạy cao hơn so với CA 125 trong chẩn đoán ung thư buồng trứng nguyên phát ở giai đoạn I hoặc II, đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh (82% so với 29%, tương ứng). Độ đặc hiệu của OVA1 cho bệnh ác tính buồng trứng là 52% cho tiền mãn kinh và 33% cho phụ nữ mãn kinh.
Thuật toán nguy cơ ác tính (ROMA)
Risk of Malignancy Algorithm (ROMA) gồm huyết thanh CA 125 và giá trị HE4 được tính trong một thuật toán bao gồm tình trạng mãn kinh.
Các kết quả của một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm gồm 531 bệnh nhân được coi là có nguy cơ ung thư buồng trứng cao (chiếm 24%) ban đầu được đánh giá theo mô hình này, có độ nhạy với ung thư buồng trứng là 92% đối với phụ nữ sau mãn kinh và 76% đối với phụ nữ tiền mãn kinh. Trong quần thể có nguy cơ thấp hơn, các nhà nghiên cứu về ROMA thực hiện một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm gồm 472 phụ nữ (tỉ lệ mắc ung thư buồng trứng 10%). Trong nhóm có nguy cơ thấp, độ nhạy của ROMA là 92%, độ đặc hiệu là 76% ở phụ nữ mãn kinh và tương ứng 100% và 74% ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Một phân tích gộp 11 nghiên cứu phụ nữ với một khối u vùng chậu cho thấy độ nhạy chung của ROMA cho UTBMBT là 89% và độ đặc hiệu là 83%; chẩn đoán UTBMBT giai đoạn sớm, độ nhạy là 81% và độ đặc hiệu là 76%; đối với phụ nữ tiền mãn kinh, độ nhạy là 82% và độ đặc hiệu là 82%; đối với phụ nữ sau mãn kinh, độ nhạy là 93% và độ đặc hiệu là 79%.
Khi ROMA, HE4 và CA 125 được so sánh, ROMA là nhạy nhất (ROMA: 86%; HE4: 80%; CA 125: 84%) và HE4 là đặc hiệu nhất (ROMA: 84%; HE4: 94%; CA 125: 78%), tuy nhiên, những khác biệt này là không có ý nghĩa thống kê. Phân tích này không bao gồm một nghiên cứu của 389 phụ nữ thấy rằng sự kết hợp của HE4 và CA 125 (ROMA) không cải thiện hiệu suất chẩn đoán so với từng dấu ấn riêng lẻ.
RMI là một điểm số gồm nhiều yếu tố kết hợp huyết thanh CA 125, siêu âm vùng chậu và tình trạng mãn kinh.
Một tổng quan hệ thống của 109 nghiên cứu đánh giá RMI từ I đến IV so với 79 hệ thống tính điểm dự đoán ung thư buồng trứng khác. RMI I và II (sử dụng điểm cắt 200) có hiệu suất chẩn đoán tốt nhất: RMI I (độ nhạy: 78%; độ đặc hiệu: 87%) và RMI II (độ nhạy: 79%; độ đặc hiệu: 81%). Kết quả tương tự đã được báo cáo trong một phân tích gộp gồm 66 nghiên cứu, với sự khác biệt đáng chú ý duy nhất là độ đặc hiệu của RMI II là 89%.
Ưu điểm của hệ thống RMI so với các thử nghiệm dấu ấn sinh học trong huyết thanh khác là nó kết hợp ba yếu tố lâm sàng quan trọng nhất trong việc dự đoán nguy cơ ác tính của khối u buồng trứng. Ngược lại, các thách thức đối với RMI là công thức bao gồm giá trị CA 125 thực sự (chứ không phải gán một giá trị điểm đến phạm vi khác nhau của CA 125). Điều này có thể có vấn đề trong các bệnh ung thư giai đoạn đầu và ở phụ nữ tiền mãn kinh, khi mức độ CA 125 thường là sai lầm.
TIẾP CẬN LÂM SÀNG
Các dấu ấn sinh học trong huyết thanh được sử dụng như một phần của việc đánh giá cho sự ác tính ở phụ nữ có khối u phần phụ. Đánh giá này cũng bao gồm bệnh sử, khám lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh. Các bác sĩ sử dụng thông tin này để chẩn đoán lâm sàng một khối u là ác tính. Dựa trên điều này, các bác sĩ quyết định xem bệnh nhân có cần phải phẫu thuật để chẩn đoán tiếp tục giám sát. Đối với khối u rất đáng nghi ngờ như ung thư buồng trứng, nên giới thiệu bệnh nhân đến bác sĩ ung thư phụ khoa.
Phụ nữ với khối u phần phụ
Mức độ nghi ngờ đối với khối u phần phụ ác tính dựa trên tất cả các thông tin lâm sàng có sẵn, bao gồm: sự xuất hiện của khối u trên hình ảnh, bằng chứng của di căn, tình trạng mãn kinh, yếu tố nguy cơ, thử nghiệm dấu ấn sinh học và các triệu chứng. Các bác sĩ phải xác định để hoặc là tiến hành phẫu thuật thăm dò hoặc giới thiệu đến một bác sĩ ung thư phụ khoa thích hợp.
Quyết định tiến hành phẫu thuật
Quyết định có tiến hành phẫu thuật với một khối u phần phụ phụ thuộc chủ yếu vào chẩn đoán hình ảnh và các yếu tố khác hơn là dựa vào một thử nghiệm dấu ấn sinh học.
Dấu ấn sinh học duy nhất đã được nghiên cứu để sử dụng trong việc đánh giá ban đầu của một khối u phần phụ là CA 125, mặc dù điều này chưa được FDA chấp thuận. OVA1 và ROMA đã được nghiên cứu chỉ ở những phụ nữ đã được lên kế hoạch phẫu thuật và do đó, có thể có một tỉ lệ cao hơn của ung thư buồng trứng so với dân số nói chung của phụ nữ với khối u phần phụ. Trong trường hợp không có dữ liệu liên quan đến việc sử dụng OVA1 và ROMA trong việc đánh giá ban đầu của một khối u phần phụ, không nên sử dụng các xét nghiệm này để quyết định tiến hành phẫu thuật thăm dò cho một khối u phần phụ.
CA 125 cung cấp thêm thông tin hạn chế đến quyết định tiến hành phẫu thuật. Nó có độ nhạy chung thấp và đặc biệt để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm. Ngoài ra, nó có độ đặc hiệu thấp, đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Ở phụ nữ tiền mãn kinh, quyết định xem có nên tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ là một quyết định nan giải. Siêu âm vùng chậu có thể xác định khối u buồng trứng với đặc điểm của khối u ác tính, nhưng nhiều khối u lành tính ở phụ nữ trẻ cũng có hình thái buồng trứng phức tạp. Đối với một số phụ nữ, quyết định tiến hành phẫu thuật vẫn không chắc chắn, ngay cả sau khi xem xét kết quả siêu âm kết hợp với các yếu tố nguy cơ, triệu chứng và thăm khám lâm sàng. Trong những trường hợp này, nhiều bác sĩ vẽ đường biểu diễn CA 125. Tuy nhiên, kết quả là thông tin rõ ràng chỉ khi CA 125 rất cao. Độ nhạy và độ đặc hiệu của CA 125 là thấp nói chung và đặc biệt là ở phụ nữ tiền mãn kinh. Nhiều khối u lành tính được tìm thấy trong dân số này có liên quan đến nồng độ CA 125 hơi cao. Định nghĩa của một CA 125 rất cao cũng chưa được xác lập; mức CA 125 >200 U/mL đã được đề xuất nhưng còn ít dữ liệu hỗ trợ. Cuối cùng, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với một người phụ nữ tiền mãn kinh với khối u phần phụ có CA 125 rất cao hoặc không chắc chắn chẩn đoán.
Nguy cơ ung thư buồng trứng cao đáng kể đối với phụ nữ sau mãn kinh so với phụ nữ tiền mãn kinh. Phẫu thuật thăm dò thường được thực hiện cho hầu hết khối u buồng trứng phức tạp ở phụ nữ sau mãn kinh. Ngoại trừ những khối u có vẻ lành tính, khi ổn định về kích thước và đặc điểm (ví dụ như một khối u với đặc tính phù hợp với một u lạc nội mạc tử cung đã được ghi nhận trước thời kỳ mãn kinh). Những u nang buồng trứng với hình ảnh siêu âm đơn giản (một thùy, vách mỏng, phản âm trống), đường kính <10cm không có khả năng là ác tính. Trong thực hành lâm sàng, đối với các bệnh nhân mãn kinh bị u nang đơn giản, cần làm CA 125, nếu kết quả là <35 U/mL và không có triệu chứng hoặc các yếu tố nguy cơ liên quan với ung thư buồng trứng, nên theo dõi siêu âm nối tiếp hàng loạt.
Trước khi phẫu thuật thăm dò, CA 125 được xem là cơ sở để theo dõi đáp ứng điều trị nếu ung thư buồng trứng được chẩn đoán cuối cùng.
Giới thiệu đến một bác sĩ chuyên ung thư phụ khoa
Khi quyết định tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ đã được thực hiện, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với những trường hợp có nhiều khả năng ung thư buồng trứng.
Theo các chứng cứ hiện có, khuyến cáo nên dùng OVA1 hoặc ROMA hơn là CA 125 để quyết định giới thiệu một bệnh nhân đang lên kế hoạch để đánh giá phẫu thuật khối u phần phụ đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa. Tính sẵn sàng và chi phí của thử nghiệm có thể là yếu tố để chỉ định thử nghiệm nào là thích hợp nhất cho từng tình huống lâm sàng.
TÓM TẮT VÀ KHUYẾN NGHỊ
- Ung thư buồng trứng là khối u ác tính phụ khoa phổ biến thứ hai và nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư phụ khoa tại Hoa Kỳ. UTBMBT là loại mô học phổ biến nhất của ung thư buồng trứng và thường được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển.
- Sử dụng các dấu ấn sinh học trong huyết thanh để chẩn đoán UTBMBT là một lĩnh vực hoạt động nghiên cứu. Các dấu ấn sinh học hoặc các tấm của dấu ấn sinh học thường được sử dụng kết hợp với nhau hoặc với những dấu hiệu khác (ví dụ như siêu âm).
- Những dấu ấn sinh học hiện có bao gồm: CA 125, HE4, OVA1, ROMA) và RMI.
- CA 125 là thử nghiệm thường được sử dụng cho việc đánh giá khối u phần phụ cho UTBMBT, tuy nhiên, thử nghiệm này có một vài thiếu sót. CA 125 riêng lẻ có độ nhạy thấp, đặc biệt là ung thư buồng trứng giai đoạn sớm và độ đặc hiệu chung thấp. Độ đặc hiệu là đặc biệt thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh.
- OVA1 là một bảng gồm năm dấu ấn sinh học trong huyết thanh đã được giới thiệu trong năm 2009. ROMA bao gồm huyết thanh CA 125 và giá trị HE4 được tính toán trong một thuật toán bao gồm tình trạng mãn kinh đã được giới thiệu vào năm 2011. Cả OVA1 và ROMA được dành cho sử dụng để đánh giá tiếp về khả năng ác tính ở những phụ nữ đang có kế hoạch phẫu thuật khối u phần phụ.
- Quyết định có tiến hành đánh giá phẫu thuật cho một phụ nữ với một khối u phần phụ phụ thuộc chủ yếu vào sự xuất hiện của hàng loạt trên hình ảnh và các yếu tố khác, chứ không phải dựa vào một thử nghiệm dấu ấn sinh học.
Khi quyết định tiến hành đánh giá phẫu thuật một khối u phần phụ đã được thực hiện, nên giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa ung thư phụ khoa đối với những trường hợp có nhiều khả năng ung thư buồng trứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dorigo O, Berek JS (2011). Personalizing CA 125 levels for ovarian cancer screening. Cancer Prev Res (Phila); 4:1356.
2. Drapkin R, Von Horsten HH, Lin Y et al. (2005). Human epididymis protein 4 (HE4) is a secreted glycoprotein that is overexpressed by serous and endometrioid ovarian carcinomas. Cancer Res; 65:2162.
3. Geomini P, Kruitwagen R, Bremer GL et al. (2009). The accuracy of risk scores in predicting ovarian malignancy: a systematic review. Obstet Gynecol; 113:384.
4. Jacobs I, Oram D, Fairbanks J et al. (1990). A risk of malignancy index incorporating CA 125, ultrasound and menopausal status for the accurate preoperative diagnosis of ovarian cancer. Br J Obstet Gynaecol; 97:922.
5. Lacey JV, Sherman ME (2009). Ovarian neoplasia. In: Robboy's Pathology of the Female Reproductive Tract 2nd Ed, Robboy SL, Mutter GL, Prat J et al. (Eds) Churchill Livingstone Elsevier, Oxford 2009, 601.
6. Mongia SK, Rawlins ML, Owen WE, Roberts WL (2006). Performance characteristics of seven automated CA 125 assays. Am J Clin Pathol; 125:921.
7. Moore RG, McMeekin DS, Brown AK et al. (2009). A novel multiple marker bioassay utilizing HE4 and CA125 for the prediction of ovarian cancer in patients with a pelvic mass. Gynecol Oncol; 112:40.
8. Siegel R, Naishadham D, Jemal A (2012). Cancer statistics 2012. CA Cancer J Clin; 62:10.
9. Ueland FR, Desimone CP, Seamon LG et al. (2011). Effectiveness of a multivariate index assay in the preoperative assessment of ovarian tumors. Obstet Gynecol; 117:1289.
10. Van Gorp T, Cadron I, Despierre E et al. (2011). HE4 and CA125 as a diagnostic test in ovarian cancer: prospective validation of the Risk of Ovarian Malignancy Algorithm. Br J Cancer; 104:863.
Từ khóa: thai lưu, mang thai
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thay đổi dự trữ buồng trứng sau mổ nội soi bóc nang lạc nội mạc tử cung buồng trứng - Ngày đăng: 06-06-2014
Vaccine HPV: vai trò và các khuyến cáo hiện nay - Ngày đăng: 25-04-2014
Tắc động mạch tử cung chọn lọc trong điều trị u xơ tử cung ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản muốn có con: hiệu quả hay chống chỉ định? - Ngày đăng: 09-04-2014
Tiếp cận và xử trí thai không rõ vị trí - Ngày đăng: 07-03-2014
Xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung - Kiến thức cập nhật - Ngày đăng: 10-02-2014
Tầm soát ung thư cổ tử cung bằng phương pháp VIA ở phụ nữ 25-55 tuổi đến khám tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản Thành phố Cần Thơ năm 2012 - Ngày đăng: 10-01-2014
Xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung - Kiến thức cập nhật - Ngày đăng: 27-12-2013
Thai đoạn kẽ - Ngày đăng: 16-10-2013
Cập nhật về lạc nội mạc tử cung qua các bài báo hay nhất trong những năm qua - Ngày đăng: 30-09-2013
Những kết quả nghiên cứu mới liên quan đến Vaccine HPV ở phụ nữ - Ngày đăng: 27-09-2013
Điều trị đau vùng chậu mạn tính ở phụ nữ - Ngày đăng: 29-07-2013
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK