Một nghiên cứu mới đây đã cho rằng khoảng cách giữa 2 lần sinh ngắn làm gia tăng nguy cơ gây ối vỡ non khi thai còn non tháng (preterm premature rupture of membranes - PPROM).
Nghiên cứu cũng khẳng định nguy cơ PPROM cao hơn ở phụ nữ đã từng bị PPROM ở lần mang thai trước. Các chuyên gia thuộc các trung tâm nghiên cứu tại Pasadena - Los Angeles, Bellflower - California, New Brunswick - New Jersey và Tampa - Florida, Mỹ đã phân tích số liệu các ca sinh ở bang Missouri từ năm 1989 đến 1997. Mục đích của nghiên cứu là tìm các yếu tố nguy cơ gây PPROM cũng như nguy cơ tái phát bệnh lý này. Dân số đích được lấy từ 150.929 phụ nữ sinh 2 con đầu kế tiếp nhau và 30.011 phụ nữ sinh 3 con đầu kế tiếp nhau trong suốt thời gian nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, PPROM được định nghĩa là màng ối vỡ trước 37 tuần tuổi thai khi chuyển dạ chưa khởi phát.
Trong một nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Sản Phụ khoa Mỹ, tác giả Getahun và cộng sự đã cho rằng khoảng cách giữa các lần mang thai ngắn hơn 18 tuần sẽ gia tăng nguy cơ gây PPROM ở lần mang thai thứ 2. Nguy cơ PPROM cao nhất khi khoảng cách giữa các lần sinh ngắn nhất và nguy cơ này giảm rõ rệt khi khoảng cách giữa các lần sinh trên 18 tuần.
Các nhà nghiên cứu cho rằng nguy cơ PPROM gia tăng khi khoảng cách giữa các lần sinh ngắn gợi ý tình trạng viêm mạn tính (ví dụ viêm nội mạc tử cung) có thể là nguyên nhân gây tái phát PPROM: nhiễm trùng dai dẳng sau thời gian mang thai có thể gia tăng nguy cơ PPROM ở lần mang thai kế tiếp.
Nguy cơ PPROM ở lần mang thai đầu tiên và thứ 2 ở phụ nữ Mỹ gốc Phi lần lượt là 2,9% và 2,9%, và ở phụ nữ da trắng lần lượt là 1,4% và 1,1% (các kết quả này cũng giống với các nghiên cứu trước với nhận định rằng phụ nữ Mỹ gốc Phi có nguy cơ PPROM cao hơn phụ nữ da trắng).
PPROM rõ ràng thường xảy ra hơn ở phụ nữ đã có PPROM ở lần mang thai trước. Đối với phụ nữ da trắng, tỷ lệ PPROM trong lần mang thai thứ 2 là 5,7% ở những người đã có PPROM ở lần mang thai đầu, so với chỉ 2,3% ở những phụ nữ không có PPROM ở lần mang thai đầu. Đối với phụ nữ Mỹ gốc Phi, tỷ lệ này là 10,3% so với 4,3%. Tương tự, những phụ nữ bị PPROM trong lần mang thai thứ 2 cũng có nguy cơ cao PPROM trong lần mang thai thứ 3.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng các kết quả tìm được trong nghiên cứu này cho thấy ở cả những phụ nữ Mỹ gốc Phi và Mỹ da trắng, nguy cơ PPROM trong thai kỳ ngay sau lần mang thai trước bị PPROM đều cao đáng kể và khoảng cách giữa các lần sinh ngắn làm gia tăng nguy cơ PPROM.
BS. Ngô Thụy Minh Nhi
Nguồn: American Journal of Obstetrics & Gynecology 2010;
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...