Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) sau điều trị IVF/ICSI khi so sánh giữa kích thích buồng trứng bằng FSH tái tổ hợp (rFSH) và các dạng gonadotrophin chiết xuất từ nước tiểu (uFSH/HMG). Đây là kết quả của nghiên cứu hồi cứu dựa trên dữ liệu của 42 RCT trên tổng số 9.606 cặp vợ chồng nhằm so sánh hiệu quả và độ an toàn của rFSH so với uFSH/HMG sử dụng để kích thích buồng trứng trong IVF/ICSI. Đây là phân tích gộp mới nhất về vấn đề lâm sàng này được đăng tải trên thư viện Cochrane (Van Wely M et al. “Recombinant versus urinary gonadotrophin for ovarian stimulation in assisted reproductive technology cycles (Review)” , Cochrane Database of Systematic Reviews 2011, Issue 2. Art. No.: CD005354)
Mục đích của hồi cứu này là phân tích dữ liệu của tất cả các RCT với cùng tiêu chuẩn nhận bệnh, loại trừ, cũng như phương pháp thống kê đồng nhất, có giá trị nhằm đưa ra những kết luận có giá trị hơn về mặt y học chứng cứ. Hiệu quả và độ an toàn của rFSh được so sánh với 3 loại urinary gonadotrophins chinh là hMG/ HP-hMG; Purified FSH (FSH-P) và Highly Purified FSH (FSH-HP). Tiêu chí nghiên cứu chính về hiệu quả là tỉ lệ sinh sống và về độ an toàn là tỉ lệ OHSS. Kết quả của nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sinh sống và OHSS khi so sánh rFSH với uFSH/HMG nói chung, bất kể dạng phác đồ down-regulation được sử dụng. Phân tích dữ liệu của các nhóm bệnh nhân sử dụng phôi tươi, phôi tươi + phôi rã đông cũng không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào giữa hai nhóm. Khi so sánh rFSH với từng dạng uFSH/HMG, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về tỉ lệ sinh sống và OHSS giữa rFSH so với FSH-P hoặc FHS-HP được ghi nhận. Tuy nhiên, khi so sánh rFSH với hMG/HP-hMG, tỉ lệ sinh sống ở nhóm rFSH thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm hMG/HP-hMG (OR 0.84; [95% CI: 0.72–0.99], p=0.04). Điều này có nghĩa là nếu tỉ lệ sinh sống của hMG/HP-hMG là 25% thì khi thay thế bằng rFSH tỉ lệ này nằm trong khoảng 19% đến 25%. Tỉ lệ thai lâm sàng của nhóm rFSH cũng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với hMG/HP-hMG (OR 0.85; [95% CI: 0.74–0.99]; p=0.03). Không có sự khác biệt trong OHSS giữa hai nhóm.
Dựa trên kết quả này tác giả kết luận tất cả gonadotrophins được phân tích trong hồi cứu này có vẻ có hiệu quả và độ an toàn như nhau. Lựa chọn sản phẩm sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào loại nào có trên thị trường, chi phí điều trị và tính thuận tiện khi sử dụng.
Ở Việt Nam chi phí điều trị vô sinh không được thanh toán bởi bảo hiểm y tế, vì vậy nhóm hMG/HP-hMG với giá thành thấp hơn và hiệu quả tương đương hoặc cao hơn so với nhóm rFSH có thể là một lựa chọn cân bằng hiệu quả - kinh tế cho bệnh nhân IVF/ICSI. Tuy nhiên, dạng đóng gói và cách sử dụng ít thuận tiện của hMG-HP-hMG có thể là một trở ngại cho bệnh nhân khi sử dụng.
ThS. BS. Lê Đình Trọng
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...