Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 01-04-2025 7:41am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
 
Xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện các bất thường lệch bội của phôi (preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A) được sử dụng để đánh giá tình trạng di truyền học của phôi và xác định phôi nguyên bội để chuyển trong các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm. Sự lệch bội của phôi là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến quá trình sẩy thai và chiếm khoảng 50% – 70% các trường hợp. Các nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ lệch bội của phôi tăng dần theo tuổi của mẹ và tăng ở độ tuổi trên 35 và sự lệch bội của phôi không chỉ làm giảm tỷ lệ trẻ sinh sống mà tỷ lệ sẩy thai cũng tăng theo. Mục tiêu của PGT-A là tối đa tỷ lệ trẻ sinh sống của mỗi phôi được chuyển trong khi giảm thiểu tỷ lệ sẩy thai và đa thai thông qua chuyển việc chuyển đơn phôi. Mặc dù có những tiến bộ đáng kể trong PGT bao gồm cả việc áp dụng thêm biện pháp giải trình tự thế hệ mới (next generation sequencing - NGS), tuy nhiên lợi ích của việc sử dụng PGT-A để cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống trong các chu kì chuyển phôi hiện vẫn còn gây tranh cãi. Xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ PGT-A kết hợp với NGS hiện nay được sử dụng khá phổ biến nhờ vào độ nhạy và độ đặc hiệu gần 100%. Tuy nhiên, tỷ lệ lỗi lâm sàng của phương pháp này chỉ ở mức 0,7% cho mỗi phôi. Mặc dù vậy, việc thực hiện PGT kết hợp NGS vẫn tiềm ẩn nguy cơ không đọc được kết quả, với tỷ lệ dao động từ 1,2% đến 5,7% do nhiều yếu tố trong đó do không khếch đại được DNA, điều này có thể dẫn đến việc không xác định được phôi nguyên bội. Hơn nữa, việc sử dụng PGT-A cũng có thể gây tổn thương và ảnh hưởng đến khả năng sống sót của phôi sau khi sinh thiết. Mặc dù PGT-A kết hợp NGS ngày càng được áp dụng rộng rãi, nhưng cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chỉ ra rằng phương pháp này mang lại hiệu quả rõ rệt cho bệnh nhân dưới 35 tuổi.
 
Mục đích: Đánh giá khả năng sinh con sống tích lũy sau khi xét nghiệm di truyền tiền làm tổ nhằm phát hiện các bất thường lệch bội nhiễm sắc thể của phôi (PGT-A) bằng giải trình tự thế hệ mới (NGS) so với đánh giá phôi thông qua hình thái phôi ở những bệnh nhân từ 21 – 40 tuổi đang trải qua quá trình chuyển đơn phôi nang.
 
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trong tổng 56.469 chu kì chọc hút tự thân đầu tiên ở những bệnh nhân từ 21 – 40 tuổi trãi qua quá trình chuyển đơn phôi nang có hoặc không có thực hiện PGT-A bằng NGS từ 2016 - 2019 thông qua Hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng của Hiệp hội công nghệ hỗ trợ sinh sản Hoa kì (SART CORS), chia thành 3 nhóm dựa theo độ tuổi người phụ nữ
  • Nhóm 1: bệnh nhân < 35 tuổi: 39.802 chu kì (chiếm 70,5%),
  • Nhóm 2: bệnh nhân từ 35 - 37 tuổi: 11.555 chu kì (chiếm 20,5%),
  • Nhóm 3: bệnh nhân từ 38 - 40 tuổi: 5.112 chu kì (chiếm 9,1%).
Tiêu chí loại: Những bệnh nhân >40 tuổi; tổng số lượng noãn đã thụ tinh (hai tiền nhân – 2PN) <5; thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ do bệnh đơn gen (PGT-M) hoặc bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT-SR), xét nghiệm kháng nguyên HLA; chu kì đông lạnh – rã đông noãn; ngân hàng phôi; mang thai hộ; chuyển phôi giai đoạn phân chia; phôi từ nhiều chu kì; sẩy thai liên tục.
 
Kết quả:
- Độ tuổi trung bình là 32,4 ± 3,7 tuổi và BMI là 26,4 ± 6 kg/m2. Có 49.608 chu kì không sử dụng PGT-A chiếm khoảng 87,8%, còn lại 6.861 chu kì sử dụng PGT-A.
- Số lượng noãn trung bình thụ tinh, phôi nang, và phôi đông lạnh tương tự nhau giữa các chu kì PGT-A và không sử dụng PGT-A. Trong toàn bộ nhóm, tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy thấp hơn ở những nhóm bệnh nhân sử dụng PGT-A (59,1%) so với nhóm không sử dụng PGT-A (65,7%). Tuy nhiên, khi xét theo độ tuổi
  • Ở nhóm tuổi dưới 35, tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy là 67,3% ở nhóm PGT-A so với 68,6% không sử dụng PGT-A (p=0,014)
  • Ở các nhóm tuổi từ 35 trở lên, tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy trong nhóm PGT-A cao hơn nhóm không PGT-A (62,5% so với 59,1% ở độ tuổi 35 – 37 (p=0.027) và 51,3% so với 44,8% ở độ tuổi 38 – 40 tuổi (p<0,001)).
-  Đối với những bệnh nhân dưới 35 tuổi, tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai và trẻ sinh sống ở nhóm PGT-A không có sự khác biệt so với nhóm không PGT-A. Đối với nhóm từ 35 – 37 tuổi và 38 - 40 tuổi, khi so sánh việc sử dụng PGT-A so với không sử dụng PGT-A, tỉ lệ thai lâm sàng cao hơn 16% ở bệnh nhân trong độ tuổi 35 – 37 và 32% ở nhóm 38 – 40 tuổi. Song, tỷ lệ sẩy thai thấp hơn 29% và 48% ở những người trong độ tuổi 35 – 37 và 38 – 40 tuổi. Ngoài ra, tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn 24% và 55%.
- Khi phân tích nhóm bao gồm các chu kì đông lạnh phôi toàn bộ và chuyển đơn phôi nang bao gồm 29.041 chu kì, có 6.861 (23,6%) chu kì sử dụng PGT-A và 22.180 (76,4%) chu kì không sử dụng PGT-A. PGT-A có liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống tích lũy cao hơn ở những bệnh nhân trong độ tuổi ≥ 35 tuổi (p<0,001) và không có sự khác biệt giữa những bệnh nhân trong độ tuổi dưới 35 (p=0,105). Và tỉ lệ sẩy thai trên mỗi lần chuyển phôi xảy ra thấp hơn đáng kể trong các chu kì PGT-A so với không có PGT-A.
 
Kết luận: Sự thành công của các chu kì thụ tinh ống nghiệm tiên lượng tốt có sử dụng xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để phát hiện các bất thường lệch bội của phôi (PGT-A) kết hợp với giải trình tự thế hệ mới (NGS) phụ thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân nữ. PGT-A không làm tăng số lượng phôi nguyên bội cũng như không làm giảm số lượng phôi lệch bội trong một chu kì chọc hút. PGT-A có liên quan đến làm giảm tỷ lệ sẩy thai, tăng tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy đối với những bệnh nhân từ 35 – 40 tuổi. Tuy nhiên, PGT-A không mang lại lợi ích đối với bệnh nhân dưới 35 tuổi. Chính vì thế, bệnh nhân cần được tư vấn và cụ thể hóa đối với việc sử dụng PGT-A trong các chu kì thụ tinh ống nghiệm phù hợp với độ tuổi cũng như tiền sử của bệnh nhân.
 
Tài liệu tham khảo: Harris, B. S., Acharya, K. S., Unnithan, S., Neal, S. A., Mebane, S., Truong, T., & Muasher, S. J. (2025). Success rates with preimplantation genetic testing for aneuploidy in good prognosis patients are dependent on age. Fertility and Sterility123(3), 428-438.
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK