Tin tức
on Monday 31-03-2025 2:06pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Mặc dù thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đã có những tiến bộ đáng kể từ những năm 1980, việc quản lý lâm sàng đối với những phụ nữ có tiên lượng thấp vẫn còn là một thách thức. Theo tiêu chí POSEIDON (Patient-Oriented Strategies Encompassing Individualised Oocyte Number), những bệnh nhân có tiên lượng thấp trong điều trị IVF được định nghĩa là những người có số lượng noãn thu được ≤9 hoặc có dự trữ buồng trứng kém (tổng số nang thứ cấp <5 hoặc nồng độ hormone anti-Müllerian <8.6 pmol/L). Theo một nghiên cứu đoàn hệ đa quốc gia, tỉ lệ phụ nữ có tiên lượng thấp chiếm gần 40% trong tổng số bệnh nhân thực hiện IVF. Nhóm bệnh nhân này có tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy thấp hơn khoảng 50% so với những phụ nữ có tiên lượng bình thường.
Trong thập kỷ qua, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi (freeze-all strategy) đã được áp dụng nhằm cải thiện kết quả mang thai và giảm nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS - Ovarian Hyperstimulation Syndrome). Mặc dù kỹ thuật bảo quản phôi nhìn chung an toàn, tổn thương phôi do quy trình đông lạnh - rã đông vẫn có thể xảy ra. Các thử nghiệm ngẫu nhiên trước đây đã chỉ ra rằng, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi có thể mang lại tỉ lệ trẻ sinh sống tương đương hoặc cao hơn ở những phụ nữ có tiên lượng tốt hoặc bình thường so với chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, liệu phụ nữ có tiên lượng thấp có được lợi ích từ chiến lược này hay không vẫn chưa được làm rõ. Dựa trên các thử nghiệm trước đây và khả năng ảnh hưởng bất lợi của kích thích buồng trứng đối với nội mạc tử cung, nhóm tác giả đã đưa ra giả thuyết rằng chuyển phôi đông lạnh có thể mang lại tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi tươi ở nhóm phụ nữ có tiên lượng thấp.
Vật liệu và phương pháp
Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm, được thực hiện tại 9 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc từ tháng 12/2021 đến tháng 5/2023. Nghiên cứu bao gồm những phụ nữ thực hiện chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên hoặc thứ hai và có tiên lượng thấp, được xác định theo tiêu chí POSEIDON và không giới hạn độ tuổi. Các tiêu chí loại trừ bao gồm: phụ nữ chống chỉ định chuyển phôi tươi, mức progesterone tăng cao trước khi chọc hút noãn, trữ noãn, có tiền sử PCOS, bất thường tử cung. Kết quả chính là tỉ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên. Các kết quả phụ bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng, đơn thai hoặc song thai, sảy thai, thai ngoài tử cung, cân nặng trẻ sơ sinh, biến chứng mẹ và trẻ sơ sinh, tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy trong vòng một năm sau phân nhóm.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SAS (phiên bản 9.4).
Kết quả
Tổng cộng 838 bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu và được phân nhóm ngẫu nhiên, bao gồm 419 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi đông lạnh và 419 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm chuyển phôi đông lạnh thấp hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (32% so với 40%; P=0,009). Các kết quả phụ cũng cho thấy xu hướng tương tự. Cụ thể, tỉ lệ trẻ sinh sống đơn thai (26,7% so với 31,0%; P=0,17), tỉ lệ trẻ sinh sống song thai (4,8% so với 9,1%; P=0,01) và tỉ lệ thai lâm sàng (39,1% so với 47,0%; P=0,02). Ngoài ra, tỉ lệ sảy thai tính trên số ca có thai sinh hóa cũng cao hơn ở nhóm chuyển phôi đông lạnh (31,1% so với 22,6%; P=0,05).
Cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, trẻ đơn thai có cân nặng trung bình là 3.331g và ở nhóm chuyển phôi tươi là 3.294g (P=0,55). Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy trong vòng một năm ở nhóm chuyển phôi đông lạnh thấp hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (44,2% so với 51,3%; P=0,04) (RR=0,86, 95%; KTC: 0,75 - 0,99). Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tỉ lệ biến chứng sản khoa như tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, nhau tiền đạo, vỡ ối sớm, xuất huyết sau sinh hay biến chứng sơ sinh như vàng da, nhiễm trùng sơ sinh, nhập viện kéo dài.
Ngoài ra, trong nhóm bệnh nhân thực hiện chuyển phôi đông lạnh, một phân tích post hoc đã được thực hiện để đánh giá sự khác biệt theo phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung. Kết quả chỉ ra rằng những bệnh nhân sử dụng chu kỳ tự nhiên để chuẩn bị nội mạc tử cung có tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với những bệnh nhân sử dụng chu kỳ nhân tạo. Điều này đặt ra câu hỏi về việc liệu chu kỳ tự nhiên có thể là lựa chọn tối ưu hơn cho nhóm bệnh nhân có tiên lượng thấp khi thực hiện chuyển phôi đông lạnh. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn để xác nhận phát hiện này.
Bàn luận
Nghiên cứu này cho thấy chuyển phôi đông lạnh không mang lại lợi thế so với chuyển phôi tươi ở nhóm phụ nữ có tiên lượng thấp, đồng thời làm giảm tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy. Ở những phụ nữ có tiên lượng tốt, kích thích buồng trứng mạnh có thể dẫn đến mức hormone steroid nội sinh rất cao, làm suy giảm sự tiếp nhận của nội mạc tử cung trong chu kỳ tươi. Trong trường hợp này, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi giúp tối ưu hóa điều kiện nội mạc tử cung trong chu kỳ sau, từ đó cải thiện tỉ trẻ lệ sinh sống. Tuy nhiên, đối với nhóm có tiên lượng thấp, nồng độ hormone trong chu kỳ tươi thường không quá cao, do đó nội mạc tử cung vẫn có thể tiếp nhận phôi một cách thuận lợi. Dưới những điều kiện này, tổn thương phôi do quá trình đông lạnh - rã đông có thể làm giảm khả năng làm tổ, dẫn đến tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh.
Nghiên cứu này cùng với các thử nghiệm trước đây cho thấy lợi ích của chuyển phôi đông lạnh phụ thuộc vào mức độ đáp ứng buồng trứng. Tuy nhiên, vẫn cần thêm nghiên cứu để xác định các yếu tố dự báo cụ thể giúp cá nhân hóa chiến lược chuyển phôi cho từng bệnh nhân. Ngoài ra, các nghiên cứu trong tương lai cũng cần xem xét phác đồ chuyển phôi tối ưu cho nhóm có tiên lượng thấp, bao gồm số lượng phôi nên chuyển và giai đoạn phát triển của phôi. Nhìn chung, chuyển phôi tươi có thể là lựa chọn tốt hơn cho phụ nữ có tiên lượng thấp khi thực hiện IVF, giúp cải thiện tỉ lệ trẻ sinh sống so với chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi. Những chiến lược điều trị như tích lũy phôi qua các chu kỳ liên tiếp hoặc thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ thường quy (PGT-A), cần được đánh giá thêm trong nhóm bệnh nhân này.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Đầu tiên, nghiên cứu không chuẩn hóa hoàn toàn các can thiệp lâm sàng, bao gồm phác đồ kích thích buồng trứng, số lượng và giai đoạn phôi chuyển, và phương pháp chuẩn bị nội mạc tử cung trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Thứ hai, tỉ lệ chuyển phôi nang cao hơn ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, trong khi nhóm chuyển phôi tươi có tỉ lệ chuyển hai phôi giai đoạn phân chia cao hơn. Thứ ba, bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi đông lạnh có xu hướng trì hoãn hoặc hủy bỏ chu kỳ điều trị.
Nguồn: Wei D, Sun Y, Zhao H, et al. Frozen versus fresh embryo transfer in women with low prognosis for in vitro fertilisation treatment: pragmatic, multicentre, randomised controlled trial. BMJ. 2025;388:e081474. Published 2025 Jan 29. doi:10.1136/bmj-2024-081474.
Tổng quan
Mặc dù thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đã có những tiến bộ đáng kể từ những năm 1980, việc quản lý lâm sàng đối với những phụ nữ có tiên lượng thấp vẫn còn là một thách thức. Theo tiêu chí POSEIDON (Patient-Oriented Strategies Encompassing Individualised Oocyte Number), những bệnh nhân có tiên lượng thấp trong điều trị IVF được định nghĩa là những người có số lượng noãn thu được ≤9 hoặc có dự trữ buồng trứng kém (tổng số nang thứ cấp <5 hoặc nồng độ hormone anti-Müllerian <8.6 pmol/L). Theo một nghiên cứu đoàn hệ đa quốc gia, tỉ lệ phụ nữ có tiên lượng thấp chiếm gần 40% trong tổng số bệnh nhân thực hiện IVF. Nhóm bệnh nhân này có tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy thấp hơn khoảng 50% so với những phụ nữ có tiên lượng bình thường.
Trong thập kỷ qua, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi (freeze-all strategy) đã được áp dụng nhằm cải thiện kết quả mang thai và giảm nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS - Ovarian Hyperstimulation Syndrome). Mặc dù kỹ thuật bảo quản phôi nhìn chung an toàn, tổn thương phôi do quy trình đông lạnh - rã đông vẫn có thể xảy ra. Các thử nghiệm ngẫu nhiên trước đây đã chỉ ra rằng, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi có thể mang lại tỉ lệ trẻ sinh sống tương đương hoặc cao hơn ở những phụ nữ có tiên lượng tốt hoặc bình thường so với chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, liệu phụ nữ có tiên lượng thấp có được lợi ích từ chiến lược này hay không vẫn chưa được làm rõ. Dựa trên các thử nghiệm trước đây và khả năng ảnh hưởng bất lợi của kích thích buồng trứng đối với nội mạc tử cung, nhóm tác giả đã đưa ra giả thuyết rằng chuyển phôi đông lạnh có thể mang lại tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi tươi ở nhóm phụ nữ có tiên lượng thấp.
Vật liệu và phương pháp
Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm, được thực hiện tại 9 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc từ tháng 12/2021 đến tháng 5/2023. Nghiên cứu bao gồm những phụ nữ thực hiện chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên hoặc thứ hai và có tiên lượng thấp, được xác định theo tiêu chí POSEIDON và không giới hạn độ tuổi. Các tiêu chí loại trừ bao gồm: phụ nữ chống chỉ định chuyển phôi tươi, mức progesterone tăng cao trước khi chọc hút noãn, trữ noãn, có tiền sử PCOS, bất thường tử cung. Kết quả chính là tỉ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên. Các kết quả phụ bao gồm tỉ lệ thai lâm sàng, đơn thai hoặc song thai, sảy thai, thai ngoài tử cung, cân nặng trẻ sơ sinh, biến chứng mẹ và trẻ sơ sinh, tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy trong vòng một năm sau phân nhóm.
Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SAS (phiên bản 9.4).
Kết quả
Tổng cộng 838 bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu và được phân nhóm ngẫu nhiên, bao gồm 419 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi đông lạnh và 419 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm chuyển phôi đông lạnh thấp hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (32% so với 40%; P=0,009). Các kết quả phụ cũng cho thấy xu hướng tương tự. Cụ thể, tỉ lệ trẻ sinh sống đơn thai (26,7% so với 31,0%; P=0,17), tỉ lệ trẻ sinh sống song thai (4,8% so với 9,1%; P=0,01) và tỉ lệ thai lâm sàng (39,1% so với 47,0%; P=0,02). Ngoài ra, tỉ lệ sảy thai tính trên số ca có thai sinh hóa cũng cao hơn ở nhóm chuyển phôi đông lạnh (31,1% so với 22,6%; P=0,05).
Cân nặng trung bình của trẻ sơ sinh không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, trẻ đơn thai có cân nặng trung bình là 3.331g và ở nhóm chuyển phôi tươi là 3.294g (P=0,55). Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy trong vòng một năm ở nhóm chuyển phôi đông lạnh thấp hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (44,2% so với 51,3%; P=0,04) (RR=0,86, 95%; KTC: 0,75 - 0,99). Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tỉ lệ biến chứng sản khoa như tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật, nhau tiền đạo, vỡ ối sớm, xuất huyết sau sinh hay biến chứng sơ sinh như vàng da, nhiễm trùng sơ sinh, nhập viện kéo dài.
Ngoài ra, trong nhóm bệnh nhân thực hiện chuyển phôi đông lạnh, một phân tích post hoc đã được thực hiện để đánh giá sự khác biệt theo phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung. Kết quả chỉ ra rằng những bệnh nhân sử dụng chu kỳ tự nhiên để chuẩn bị nội mạc tử cung có tỉ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với những bệnh nhân sử dụng chu kỳ nhân tạo. Điều này đặt ra câu hỏi về việc liệu chu kỳ tự nhiên có thể là lựa chọn tối ưu hơn cho nhóm bệnh nhân có tiên lượng thấp khi thực hiện chuyển phôi đông lạnh. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn để xác nhận phát hiện này.
Bàn luận
Nghiên cứu này cho thấy chuyển phôi đông lạnh không mang lại lợi thế so với chuyển phôi tươi ở nhóm phụ nữ có tiên lượng thấp, đồng thời làm giảm tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy. Ở những phụ nữ có tiên lượng tốt, kích thích buồng trứng mạnh có thể dẫn đến mức hormone steroid nội sinh rất cao, làm suy giảm sự tiếp nhận của nội mạc tử cung trong chu kỳ tươi. Trong trường hợp này, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi giúp tối ưu hóa điều kiện nội mạc tử cung trong chu kỳ sau, từ đó cải thiện tỉ trẻ lệ sinh sống. Tuy nhiên, đối với nhóm có tiên lượng thấp, nồng độ hormone trong chu kỳ tươi thường không quá cao, do đó nội mạc tử cung vẫn có thể tiếp nhận phôi một cách thuận lợi. Dưới những điều kiện này, tổn thương phôi do quá trình đông lạnh - rã đông có thể làm giảm khả năng làm tổ, dẫn đến tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh.
Nghiên cứu này cùng với các thử nghiệm trước đây cho thấy lợi ích của chuyển phôi đông lạnh phụ thuộc vào mức độ đáp ứng buồng trứng. Tuy nhiên, vẫn cần thêm nghiên cứu để xác định các yếu tố dự báo cụ thể giúp cá nhân hóa chiến lược chuyển phôi cho từng bệnh nhân. Ngoài ra, các nghiên cứu trong tương lai cũng cần xem xét phác đồ chuyển phôi tối ưu cho nhóm có tiên lượng thấp, bao gồm số lượng phôi nên chuyển và giai đoạn phát triển của phôi. Nhìn chung, chuyển phôi tươi có thể là lựa chọn tốt hơn cho phụ nữ có tiên lượng thấp khi thực hiện IVF, giúp cải thiện tỉ lệ trẻ sinh sống so với chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi. Những chiến lược điều trị như tích lũy phôi qua các chu kỳ liên tiếp hoặc thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ thường quy (PGT-A), cần được đánh giá thêm trong nhóm bệnh nhân này.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Đầu tiên, nghiên cứu không chuẩn hóa hoàn toàn các can thiệp lâm sàng, bao gồm phác đồ kích thích buồng trứng, số lượng và giai đoạn phôi chuyển, và phương pháp chuẩn bị nội mạc tử cung trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Thứ hai, tỉ lệ chuyển phôi nang cao hơn ở nhóm chuyển phôi đông lạnh, trong khi nhóm chuyển phôi tươi có tỉ lệ chuyển hai phôi giai đoạn phân chia cao hơn. Thứ ba, bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi đông lạnh có xu hướng trì hoãn hoặc hủy bỏ chu kỳ điều trị.
Nguồn: Wei D, Sun Y, Zhao H, et al. Frozen versus fresh embryo transfer in women with low prognosis for in vitro fertilisation treatment: pragmatic, multicentre, randomised controlled trial. BMJ. 2025;388:e081474. Published 2025 Jan 29. doi:10.1136/bmj-2024-081474.
Từ khóa: Chuyển phôi đông lạnh; Chuyển phôi tươi; IVF; Tỉ lệ trẻ sinh sống; Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy.
Các tin khác cùng chuyên mục:











HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK