Tin tức
on Monday 31-03-2025 2:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Hiện nay, đa số các trung tâm Hỗ trợ sinh sản đều tiến hành nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang. Qua đó, các phôi có tiềm năng phát triển thấp hoặc khiếm khuyết về di truyền sẽ được loại bỏ ở một mức độ nhất định. Chuyển phôi nang cũng cải thiện khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung, tăng cơ hội làm tổ, cải thiện tỉ lệ mang thai lâm sàng và làm giảm tình trạng đa thai, sinh non và trẻ sơ sinh nhẹ cân. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đều phù hợp với nuôi cấy phôi nang. Nuôi cấy phôi nang có một số rủi ro nhất định là một số phôi sẽ bị loại bỏ trong quá trình nuôi cấy, dẫn đến ít hoặc không có phôi nang hữu dụng cho bệnh nhân. Hiện tại, thiếu các chỉ số hiệu quả để dự đoán chính xác kết quả của nuôi cấy phôi nang.
Một số lượng lớn các nghiên cứu đã xác nhận rằng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (c-IVF)/tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) kích thích buồng trứng được kiểm soát (COS - Controlled ovarian stimulation), progesterone (P) tăng cao vào ngày kích hoạt không chỉ làm giảm khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung, đẩy nhanh cửa sổ làm tổ và dẫn đến tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ thai diễn tiến, tỉ lệ sinh con sống giảm, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng phôi. Tuy nhiên, vẫn chưa có đủ bằng chứng về việc liệu mức P tăng cao vào ngày kích hoạt có ảnh hưởng đến kết quả hình thành phôi nang vào ngày 5 (D5) hay ngày 6 (D6) và làm tăng nguy cơ không có phôi nang hữu dụng hay không. Một số ít nghiên cứu hiện có cũng chỉ là một phần, chỉ bao gồm các chu kỳ ICSI/xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ (PGT) hoặc chỉ tỉ lệ hình thành phôi nang chất lượng cao nhất. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của nồng độ P tăng cao vào ngày kích hoạt lên tỉ lệ phôi nang hữu dụng, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt và thời gian hình thành phôi nang trong các chu kỳ c-IVF/ICSI.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 1095 chu kỳ c-IVF/ICSI của COS với phác đồ GnRH antagonist từ tháng 1/2021 đến tháng 6/2024. Tiêu chí loại trừ bao gồm: Phụ nữ trên 40 tuổi; Bất thường nhiễm sắc thể ở vợ hoặc/và chồng; hơn 2 chu kỳ c-IVF/ICSI; đáp ứng buồng trứng kém. Tiêu chí loại trừ với phôi ngày 3 bao gồm: noãn/hợp tử bất thường, không có phôi D3, phôi trữ D3 hoặc chuyển phôi D3. Cuối cùng, 747 chu kỳ (747 bệnh nhân đủ điều kiện), với tổng số 4177 phôi D3 để nuôi cấy phôi nang đã được đưa vào nghiên cứu này.
Nồng độ hormone sinh dục (E2, LH, P) được đo từ 8:00 sáng đến 9:00 sáng vào ngày kích hoạt. Giới hạn phát hiện của xét nghiệm miễn dịch hóa phát quang là 0,03 ng/mL, độ nhạy là 0,15 ng/ml, hệ số biến thiên trong nhóm là 3,0% và hệ số biến thiên giữa các nhóm là 5,5%. Kết quả chính của nghiên cứu là tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng, với các chỉ số khác là tỉ lệ phôi nang D6 hữu dụng và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt.
Kết quả
Trong tổng số 4177 phôi phân tích, có 1008 phôi D3 (254 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt bình thường (P<1,0 ng/ml), 1411 phôi D3 (257 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt tăng nhẹ (1,0≤P ≤ 1,5 ng/ml) và 1758 phôi D3 (236 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt cao (P>1,5 ng/ml).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các chỉ số sau được nhóm theo P ngày kích hoạt: tuổi nữ, tuổi nam, thời gian vô sinh, loại vô sinh, yếu tố vô sinh, mang thai, số lần đẻ và sảy thai (P>0,05). Số nang trưởng thành và nồng độ E2 ngày kích hoạt tăng đáng kể theo sự gia tăng P ngày kích hoạt (P<0,05). Tổng liều Gn, nồng độ LH ngày kích hoạt, tỉ lệ thụ tinh không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (P>0,05). Không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nang hữu dụng (47,42% so với 48,05% so với 49,37%; P=0,572), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (35,62% so với 36,29% so với 36,23%; P=0,933), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (11,80% so với 11,76% so với 13,14%; P=0,420), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (10,62% so với 12,33% so với 11,66%; P=0,430) và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (10,62% so với 11,83% so với 10,98%; P=0,605) giữa ba nhóm. Tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D6 (0,00 so với 0,50 so với 0,68; P=0,036) tăng đáng kể theo thứ tự khi tăng P ngày kích hoạt.
Mối liên quan giữa mức P ngày kích hoạt và kết quả nuôi cấy phôi nang
Trong mô hình hồi quy logistic đa biến, so với nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang hữu dụng (OR=0,864, 95% KTC: 0,726-1,029; P=0,100), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (OR=0,845, 95% KTC: 0,704-1,015; P=0,072), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (OR=1,003, 95% KTC: 0,768-1,311; P=0,980), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (OR=1,004, 95% KTC: 0,763-1,323; P=0,975), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (OR=0,937, 95% KTC: 0,710-1,238; P=0,649) trong nhóm nồng độ hơi cao không có thay đổi đáng kể; tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (OR=1,064, 95% KTC: 0,799-1,417; P=0,670), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (OR=0,859, 95% KTC: 0,635-1,161; P=0,323) và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (OR=0,787, 95% KTC: 0,579-1,069; P=0,126) trong nhóm nồng độ cao cũng không có thay đổi; tỉ lệ phôi nang hữu dụng (OR=0,780, 95% KTC: 0,645-0,942; P=0,010) và tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (OR=0,736, 95% KTC: 0,604-0,898; P=0,003) trong nhóm mức độ cao giảm đáng kể.
Phân tích phân nhóm về tỉ lệ phôi nang D5 đã hiệu chỉnh trong các chu kỳ c-IVF/ICSI dựa trên độ tuổi của phụ nữ (<35 so với ≥35 tuổi) và loại thụ tinh (c-IVF so với ICSI). Khi độ tuổi của phụ nữ dưới 35 tuổi, tỉ lệ phôi nang D5 là 36,69%. So với tỉ lệ đó (36,30%) ở nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang D5 (36,67%, OR=0,841, 95% KTC: 0,693-1,021; P=0,081) ở nhóm mức độ tăng nhẹ không có thay đổi, trong khi (36,92%, OR=0,744, 95% KTC: 0,602-0,920; P=0,006) ở nhóm mức độ cao đã giảm. Khi độ tuổi của phụ nữ là 35 tuổi trở lên, tỉ lệ phôi nang D5 là 31,26%, trong đó (33,70%, OR=1,019, 95% KTC: 0,556-1,867; P=0,951; 28,86%, OR=0,772, 95% KTC: 0,394-1,514; P=0,452) ở nhóm nồng độ tăng nhẹ và nhóm nồng độ cao không có thay đổi so với nhóm nồng độ bình thường (30,58%). Trong các chu kỳ c-IVF, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng là 38,77%, trong đó (39,32%, OR=0,916, 95% KTC: 0,749-1,120; P=0,393; 38,81%, OR=0,820, 95% KTC: 0,662-1,015; P=0,069) ở nhóm mức độ tăng nhẹ và nhóm mức độ cao không có thay đổi so với (37,83%) ở nhóm mức độ bình thường. Trong các chu kỳ ICSI, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng là 22,98%. Và so với (28,69%) ở nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng (20,78%, OR=0,675, 95% KTC: 0,413-1,105; P=0,118) ở nhóm mức tăng nhẹ không có thay đổi đáng kể, trong khi (19,13%, OR=0,369, 95% KTC: 0,194-0,703; P=0,002) ở nhóm mức cao đã giảm đáng kể.
Bàn luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ P tăng nhẹ vào ngày kích hoạt (1,0-1,5ng/ml) không liên quan đến kết quả nuôi cấy phôi nang, trong khi nồng độ P vào ngày kích hoạt (>1,5ng/ml) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỉ lệ phôi nang vào ngày thứ 5, đặc biệt khi phụ nữ dưới 35 tuổi hoặc loại thụ tinh là ICSI.
Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỉ lệ phôi nang D6 có sẵn giữa các nhóm mức P ngày kích hoạt khác nhau. Mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ phôi nang D5 có sẵn giữa các nhóm mức P ngày kích hoạt khác nhau, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, kết quả cho thấy P tăng cao vào ngày kích hoạt (>1,5ng/ml) dẫn đến giảm tỉ lệ phôi nang D5 có sẵn. Trong phân tích nhóm phụ về độ tuổi của phụ nữ (<35 so với ≥35 tuổi) và loại thụ tinh (c-IVF so với ICSI), kết luận rằng khi P ngày kích hoạt >1,5ng/ml, tỉ lệ phôi nang D5 giảm đáng kể ở hai nhóm phụ nữ <35 tuổi và chu kỳ ICSI.
Nguồn: Sun Y, Wang J, Zhang L, Chang Y, Zhu A. Effects of trigger-day progesterone in c-IVF/ICSI cycles on blastocyst culture outcomes. Front Endocrinol (Lausanne). 2025;16:1496803. Published 2025 Feb 12. doi:10.3389/fendo.2025.1496803.
Giới thiệu
Hiện nay, đa số các trung tâm Hỗ trợ sinh sản đều tiến hành nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang. Qua đó, các phôi có tiềm năng phát triển thấp hoặc khiếm khuyết về di truyền sẽ được loại bỏ ở một mức độ nhất định. Chuyển phôi nang cũng cải thiện khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung, tăng cơ hội làm tổ, cải thiện tỉ lệ mang thai lâm sàng và làm giảm tình trạng đa thai, sinh non và trẻ sơ sinh nhẹ cân. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đều phù hợp với nuôi cấy phôi nang. Nuôi cấy phôi nang có một số rủi ro nhất định là một số phôi sẽ bị loại bỏ trong quá trình nuôi cấy, dẫn đến ít hoặc không có phôi nang hữu dụng cho bệnh nhân. Hiện tại, thiếu các chỉ số hiệu quả để dự đoán chính xác kết quả của nuôi cấy phôi nang.
Một số lượng lớn các nghiên cứu đã xác nhận rằng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (c-IVF)/tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) kích thích buồng trứng được kiểm soát (COS - Controlled ovarian stimulation), progesterone (P) tăng cao vào ngày kích hoạt không chỉ làm giảm khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung, đẩy nhanh cửa sổ làm tổ và dẫn đến tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ thai diễn tiến, tỉ lệ sinh con sống giảm, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng phôi. Tuy nhiên, vẫn chưa có đủ bằng chứng về việc liệu mức P tăng cao vào ngày kích hoạt có ảnh hưởng đến kết quả hình thành phôi nang vào ngày 5 (D5) hay ngày 6 (D6) và làm tăng nguy cơ không có phôi nang hữu dụng hay không. Một số ít nghiên cứu hiện có cũng chỉ là một phần, chỉ bao gồm các chu kỳ ICSI/xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ (PGT) hoặc chỉ tỉ lệ hình thành phôi nang chất lượng cao nhất. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của nồng độ P tăng cao vào ngày kích hoạt lên tỉ lệ phôi nang hữu dụng, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt và thời gian hình thành phôi nang trong các chu kỳ c-IVF/ICSI.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu này bao gồm 1095 chu kỳ c-IVF/ICSI của COS với phác đồ GnRH antagonist từ tháng 1/2021 đến tháng 6/2024. Tiêu chí loại trừ bao gồm: Phụ nữ trên 40 tuổi; Bất thường nhiễm sắc thể ở vợ hoặc/và chồng; hơn 2 chu kỳ c-IVF/ICSI; đáp ứng buồng trứng kém. Tiêu chí loại trừ với phôi ngày 3 bao gồm: noãn/hợp tử bất thường, không có phôi D3, phôi trữ D3 hoặc chuyển phôi D3. Cuối cùng, 747 chu kỳ (747 bệnh nhân đủ điều kiện), với tổng số 4177 phôi D3 để nuôi cấy phôi nang đã được đưa vào nghiên cứu này.
Nồng độ hormone sinh dục (E2, LH, P) được đo từ 8:00 sáng đến 9:00 sáng vào ngày kích hoạt. Giới hạn phát hiện của xét nghiệm miễn dịch hóa phát quang là 0,03 ng/mL, độ nhạy là 0,15 ng/ml, hệ số biến thiên trong nhóm là 3,0% và hệ số biến thiên giữa các nhóm là 5,5%. Kết quả chính của nghiên cứu là tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng, với các chỉ số khác là tỉ lệ phôi nang D6 hữu dụng và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt.
Kết quả
Trong tổng số 4177 phôi phân tích, có 1008 phôi D3 (254 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt bình thường (P<1,0 ng/ml), 1411 phôi D3 (257 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt tăng nhẹ (1,0≤P ≤ 1,5 ng/ml) và 1758 phôi D3 (236 chu kỳ) ở nhóm P ngày kích hoạt cao (P>1,5 ng/ml).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các chỉ số sau được nhóm theo P ngày kích hoạt: tuổi nữ, tuổi nam, thời gian vô sinh, loại vô sinh, yếu tố vô sinh, mang thai, số lần đẻ và sảy thai (P>0,05). Số nang trưởng thành và nồng độ E2 ngày kích hoạt tăng đáng kể theo sự gia tăng P ngày kích hoạt (P<0,05). Tổng liều Gn, nồng độ LH ngày kích hoạt, tỉ lệ thụ tinh không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (P>0,05). Không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nang hữu dụng (47,42% so với 48,05% so với 49,37%; P=0,572), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (35,62% so với 36,29% so với 36,23%; P=0,933), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (11,80% so với 11,76% so với 13,14%; P=0,420), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (10,62% so với 12,33% so với 11,66%; P=0,430) và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (10,62% so với 11,83% so với 10,98%; P=0,605) giữa ba nhóm. Tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D6 (0,00 so với 0,50 so với 0,68; P=0,036) tăng đáng kể theo thứ tự khi tăng P ngày kích hoạt.
Mối liên quan giữa mức P ngày kích hoạt và kết quả nuôi cấy phôi nang
Trong mô hình hồi quy logistic đa biến, so với nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang hữu dụng (OR=0,864, 95% KTC: 0,726-1,029; P=0,100), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (OR=0,845, 95% KTC: 0,704-1,015; P=0,072), tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (OR=1,003, 95% KTC: 0,768-1,311; P=0,980), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (OR=1,004, 95% KTC: 0,763-1,323; P=0,975), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (OR=0,937, 95% KTC: 0,710-1,238; P=0,649) trong nhóm nồng độ hơi cao không có thay đổi đáng kể; tỉ lệ phôi nang hữu dụng D6 (OR=1,064, 95% KTC: 0,799-1,417; P=0,670), tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (OR=0,859, 95% KTC: 0,635-1,161; P=0,323) và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt D5 (OR=0,787, 95% KTC: 0,579-1,069; P=0,126) trong nhóm nồng độ cao cũng không có thay đổi; tỉ lệ phôi nang hữu dụng (OR=0,780, 95% KTC: 0,645-0,942; P=0,010) và tỉ lệ phôi nang hữu dụng D5 (OR=0,736, 95% KTC: 0,604-0,898; P=0,003) trong nhóm mức độ cao giảm đáng kể.
Phân tích phân nhóm về tỉ lệ phôi nang D5 đã hiệu chỉnh trong các chu kỳ c-IVF/ICSI dựa trên độ tuổi của phụ nữ (<35 so với ≥35 tuổi) và loại thụ tinh (c-IVF so với ICSI). Khi độ tuổi của phụ nữ dưới 35 tuổi, tỉ lệ phôi nang D5 là 36,69%. So với tỉ lệ đó (36,30%) ở nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang D5 (36,67%, OR=0,841, 95% KTC: 0,693-1,021; P=0,081) ở nhóm mức độ tăng nhẹ không có thay đổi, trong khi (36,92%, OR=0,744, 95% KTC: 0,602-0,920; P=0,006) ở nhóm mức độ cao đã giảm. Khi độ tuổi của phụ nữ là 35 tuổi trở lên, tỉ lệ phôi nang D5 là 31,26%, trong đó (33,70%, OR=1,019, 95% KTC: 0,556-1,867; P=0,951; 28,86%, OR=0,772, 95% KTC: 0,394-1,514; P=0,452) ở nhóm nồng độ tăng nhẹ và nhóm nồng độ cao không có thay đổi so với nhóm nồng độ bình thường (30,58%). Trong các chu kỳ c-IVF, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng là 38,77%, trong đó (39,32%, OR=0,916, 95% KTC: 0,749-1,120; P=0,393; 38,81%, OR=0,820, 95% KTC: 0,662-1,015; P=0,069) ở nhóm mức độ tăng nhẹ và nhóm mức độ cao không có thay đổi so với (37,83%) ở nhóm mức độ bình thường. Trong các chu kỳ ICSI, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng là 22,98%. Và so với (28,69%) ở nhóm mức bình thường, tỉ lệ phôi nang D5 hữu dụng (20,78%, OR=0,675, 95% KTC: 0,413-1,105; P=0,118) ở nhóm mức tăng nhẹ không có thay đổi đáng kể, trong khi (19,13%, OR=0,369, 95% KTC: 0,194-0,703; P=0,002) ở nhóm mức cao đã giảm đáng kể.
Bàn luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ P tăng nhẹ vào ngày kích hoạt (1,0-1,5ng/ml) không liên quan đến kết quả nuôi cấy phôi nang, trong khi nồng độ P vào ngày kích hoạt (>1,5ng/ml) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỉ lệ phôi nang vào ngày thứ 5, đặc biệt khi phụ nữ dưới 35 tuổi hoặc loại thụ tinh là ICSI.
Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỉ lệ phôi nang D6 có sẵn giữa các nhóm mức P ngày kích hoạt khác nhau. Mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ phôi nang D5 có sẵn giữa các nhóm mức P ngày kích hoạt khác nhau, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, kết quả cho thấy P tăng cao vào ngày kích hoạt (>1,5ng/ml) dẫn đến giảm tỉ lệ phôi nang D5 có sẵn. Trong phân tích nhóm phụ về độ tuổi của phụ nữ (<35 so với ≥35 tuổi) và loại thụ tinh (c-IVF so với ICSI), kết luận rằng khi P ngày kích hoạt >1,5ng/ml, tỉ lệ phôi nang D5 giảm đáng kể ở hai nhóm phụ nữ <35 tuổi và chu kỳ ICSI.
Nguồn: Sun Y, Wang J, Zhang L, Chang Y, Zhu A. Effects of trigger-day progesterone in c-IVF/ICSI cycles on blastocyst culture outcomes. Front Endocrinol (Lausanne). 2025;16:1496803. Published 2025 Feb 12. doi:10.3389/fendo.2025.1496803.
Các tin khác cùng chuyên mục:












HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK