Tin tức
on Monday 31-03-2025 2:11pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đào Hữu Nghị - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tỉ lệ vô sinh trên toàn thế giới là khoảng 17,5%, một nửa số trường hợp vô sinh ở các cặp vợ chồng có thể là do yếu tố từ người nam. Vô sinh nam đề cập đến tình trạng không thể thụ thai có liên quan đến một bất thường cụ thể được phát hiện ở người nam. Những bất thường đó có thể là mật độ tinh trùng trong tinh dịch thấp hơn mức tham chiếu (<15 triệu/ml) (oligozoospermia), tinh trùng giảm hoặc không có khả năng di chuyển (<32%) trong tinh dịch tươi (asthenozoospermia) và hình thái tinh trùng bất thường (teratozoospermia). Sự kết hợp của các yếu tố này thường được xem là oligoasthenoteratozoospermia (OAT), phần lớn các trường hợp OAT nặng đều do bất thường hoặc rối loạn tinh hoàn không rõ nguyên nhân. Chính vì vậy, các phương pháp điều trị được kê thường không có đủ cơ sở sinh lý bệnh hoặc chỉ dựa trên bằng chứng thực nghiệm.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP), là nồng độ cao tiểu cầu tự thân được huyền phù trong một lượng nhỏ huyết tương sau khi ly tâm với hàm lượng yếu tố tăng trưởng dồi dào, PRP đã chứng minh được những lợi thế của nó trong lĩnh vực liệu pháp tái tạo. Tác dụng có lợi của PRP đã được chứng minh ở một số nghiên cứu, chẳng hạn như thúc đẩy quá trình hình thành mạch máu, kiểm soát tình trạng viêm, di chuyển tế bào, biệt hóa và tăng sinh. Hiện nay, PRP ngày càng được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y học sinh sản do tiềm năng tái tạo của nó. Các nghiên cứu đã khám phá những lợi ích tiềm năng của PRP trong y học sinh sản ở phụ nữ, với các nghiên cứu tập trung vào tiêm PRP trong tử cung cho những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần (RIF) và các ứng dụng PRP trong buồng trứng cho những phụ nữ có đáp ứng buồng trứng kém (POR). Ngược lại, việc nghiên cứu về tác dụng của PRP đối với tình trạng vô sinh ở nam giới vẫn còn là bước đầu. Một số nghiên cứu đã xem xét tiềm năng tác động của PRP đến khả năng sinh sản của nam giới bị vô tinh trùng không do tắc nghẽn, tuy nhiên các bằng chứng khoa học hiện có vẫn chưa đủ để đưa ra kết luận chắc chắn. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động cụ thể của PRP đối với tình trạng vô sinh ở nam giới, tập trung vào việc cải thiện các thông số tinh trùng ở những cá nhân mắc OAT nghiêm trọng.
Đây là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành tại trung tâm hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Fatemieh, Hamedan từ 1/2022 - 8/2023 trên 88 nam giới được giới thiệu đến trung tâm để điều trị vô sinh.
Tiêu chuẩn nhận: nam giới có độ tuổi 20 - 45 mắc OAT nặng (số lượng tinh trùng ≤ 4×106/ml, tỉ lệ tinh trùng di động tiến tới ≤ 30%, tỉ lệ tinh trùng hình thái bình thường ≤1%) và đồng thuận tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại:
Đã và đang tiếp nhận các liệu pháp điều trị khác, ví dụ như liệu pháp hormone.
Mắc các bệnh lý nền (tiểu đường, thận, gan, nghiện ma túy và rượu), ung thư và đang điều trị bằng hóa trị.
Thiết kế thử nghiệm
Người tham gia được chia thành hai nhóm: đối chứng (n=44) và can thiệp (n=44). Các thông số tinh dịch sẽ được phân tích trước khi tiến hành tiêm PRP. Sau ba tháng, mẫu tinh dịch tất cả người tham gia sẽ được thu thập để phân tích tinh trùng và đánh giá độ phân mảnh DNA.
Đối với nhóm can thiệp, tuỳ kích thước tinh hoàn người tham gia được tiêm 1 - 2cc PRP vào mô tinh hoàn bằng cách gây tê tại chỗ.
Đối với nhóm đối chứng, không tiến hành bất kì liệu pháp can thiệp nào.
Kết quả
Tác động của PRP lên các thông số tinh dịch:
Mật độ tinh trùng trung bình ở nhóm đối chứng thấp hơn khi so với nhóm can thiệp (11,32 ± 8,44 so với 16,06 ± 15,16, P = 0,030).
Tỉ lệ di động tiến tới trung bình của nhóm đối chứng thấp hơn đáng kể so với nhóm can thiệp (8,86 ± 7,79% so với 85,03 ± 9,64%, P=0,014).
Tỉ lệ hình thái tinh trùng bình thường không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm (1,63 ± 1,44% so với 1,81 ± 3,68%, P=0,628).
Thể tích tinh dịch cũng không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm (2,13 ± 0,82) so với 2,24 ± 1,43, P = 0,663).
Ngoài ra, tác động của PRP lên sự phân mảnh DNA (DNA fragmentation index - DFI): Tỉ lệ tinh trùng phân mảnh DNA ở nhóm can thiệp thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (17,23 ± 9,15% so với 25,62 ± 12,84%, P <0,001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cải thiện đáng kể về mật độ tinh trùng, khả năng di động tiến tới và DFI sau khi tiêm PRP. Sự gia tăng nồng độ và khả năng di động đặc biệt đáng chú ý vì những yếu tố này quan trọng cho quá trình thụ tinh và mang thai thành công. Bên cạnh đó sự phân mảnh DNA, một yếu tố được biết là có tác động tiêu cực đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản cũng giảm đáng kể ở nhóm can thiệp tiêm PRP. Những phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu tương tự trước đó, cho thấy rằng phương pháp can thiệp PRP có thể cải thiện các thông số tinh trùng ở nam giới mắc OAT nghiêm trọng.
Sự cải thiện các thông số tinh trùng được quan sát thấy có thể là do các yếu tố tăng trưởng có trong PRP. PRP chứa nhiều yếu tố tăng trưởng khác nhau, chẳng hạn như: PDGF, TGF-β, IGF, FGF, VEGF,… Các yếu tố tăng trưởng này có đặc tính tái tạo và phục hồi, có khả năng tăng cường sản xuất tinh trùng, khả năng vận động và tính toàn vẹn của DNA.
Không có sự khác biệt nào đáng kể được quan sát thấy về hình thái tinh trùng và thể tích tinh dịch giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng trong nghiên cứu này. Cần nghiên cứu thêm để đánh giá tác động của PRP đối với các thông số này và xác định tác động lâu dài của phương pháp điều trị PRP đối với kết quả khả năng sinh sản của nam giới.
Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy tiềm năng của PRP trong cải thiện thông số tinh trùng ở nam giới OAT nặng, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với cả nghiên cứu trong tương lai và thực hành lâm sàng. Các nghiên cứu trong tương lai cần thăm dò các con đường phân tử phức tạp và các yếu tố tăng trưởng liên quan đến việc cải thiện các thông số tinh trùng sau khi tiêm PRP. Ngoài ra, cũng cần xác định tác động lâu dài của phương pháp điều trị PRP đối với khả năng sinh sản của nam giới.
Về mặt ý nghĩa lâm sàng, PRP có thể là một phương pháp điều trị tự thân ít xâm lấn hơn, một lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả hơn thay thế cho các phương pháp thông thường như liệu pháp hormone hoặc các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu sâu hơn để xác nhận những phát hiện này và làm sáng tỏ các cơ chế cơ bản của tác động của PRP lên các thông số tinh trùng.
Nguồn: Fazli, Faezeh, et al. "Effects of Testicular Platelet-Rich Plasma Injection on Sperm Parameters in Men with Severe Oligoasthenoteratozoospermia: A Clinical Trial Evaluation." International Journal of Fertility & Sterility 18.Suppl 1 (2024): 71.
Link bài báo: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39033373/
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tỉ lệ vô sinh trên toàn thế giới là khoảng 17,5%, một nửa số trường hợp vô sinh ở các cặp vợ chồng có thể là do yếu tố từ người nam. Vô sinh nam đề cập đến tình trạng không thể thụ thai có liên quan đến một bất thường cụ thể được phát hiện ở người nam. Những bất thường đó có thể là mật độ tinh trùng trong tinh dịch thấp hơn mức tham chiếu (<15 triệu/ml) (oligozoospermia), tinh trùng giảm hoặc không có khả năng di chuyển (<32%) trong tinh dịch tươi (asthenozoospermia) và hình thái tinh trùng bất thường (teratozoospermia). Sự kết hợp của các yếu tố này thường được xem là oligoasthenoteratozoospermia (OAT), phần lớn các trường hợp OAT nặng đều do bất thường hoặc rối loạn tinh hoàn không rõ nguyên nhân. Chính vì vậy, các phương pháp điều trị được kê thường không có đủ cơ sở sinh lý bệnh hoặc chỉ dựa trên bằng chứng thực nghiệm.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP), là nồng độ cao tiểu cầu tự thân được huyền phù trong một lượng nhỏ huyết tương sau khi ly tâm với hàm lượng yếu tố tăng trưởng dồi dào, PRP đã chứng minh được những lợi thế của nó trong lĩnh vực liệu pháp tái tạo. Tác dụng có lợi của PRP đã được chứng minh ở một số nghiên cứu, chẳng hạn như thúc đẩy quá trình hình thành mạch máu, kiểm soát tình trạng viêm, di chuyển tế bào, biệt hóa và tăng sinh. Hiện nay, PRP ngày càng được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y học sinh sản do tiềm năng tái tạo của nó. Các nghiên cứu đã khám phá những lợi ích tiềm năng của PRP trong y học sinh sản ở phụ nữ, với các nghiên cứu tập trung vào tiêm PRP trong tử cung cho những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần (RIF) và các ứng dụng PRP trong buồng trứng cho những phụ nữ có đáp ứng buồng trứng kém (POR). Ngược lại, việc nghiên cứu về tác dụng của PRP đối với tình trạng vô sinh ở nam giới vẫn còn là bước đầu. Một số nghiên cứu đã xem xét tiềm năng tác động của PRP đến khả năng sinh sản của nam giới bị vô tinh trùng không do tắc nghẽn, tuy nhiên các bằng chứng khoa học hiện có vẫn chưa đủ để đưa ra kết luận chắc chắn. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động cụ thể của PRP đối với tình trạng vô sinh ở nam giới, tập trung vào việc cải thiện các thông số tinh trùng ở những cá nhân mắc OAT nghiêm trọng.
Đây là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành tại trung tâm hỗ trợ sinh sản của Bệnh viện Fatemieh, Hamedan từ 1/2022 - 8/2023 trên 88 nam giới được giới thiệu đến trung tâm để điều trị vô sinh.
Tiêu chuẩn nhận: nam giới có độ tuổi 20 - 45 mắc OAT nặng (số lượng tinh trùng ≤ 4×106/ml, tỉ lệ tinh trùng di động tiến tới ≤ 30%, tỉ lệ tinh trùng hình thái bình thường ≤1%) và đồng thuận tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại:
Đã và đang tiếp nhận các liệu pháp điều trị khác, ví dụ như liệu pháp hormone.
Mắc các bệnh lý nền (tiểu đường, thận, gan, nghiện ma túy và rượu), ung thư và đang điều trị bằng hóa trị.
Thiết kế thử nghiệm
Người tham gia được chia thành hai nhóm: đối chứng (n=44) và can thiệp (n=44). Các thông số tinh dịch sẽ được phân tích trước khi tiến hành tiêm PRP. Sau ba tháng, mẫu tinh dịch tất cả người tham gia sẽ được thu thập để phân tích tinh trùng và đánh giá độ phân mảnh DNA.
Đối với nhóm can thiệp, tuỳ kích thước tinh hoàn người tham gia được tiêm 1 - 2cc PRP vào mô tinh hoàn bằng cách gây tê tại chỗ.
Đối với nhóm đối chứng, không tiến hành bất kì liệu pháp can thiệp nào.
Kết quả
Tác động của PRP lên các thông số tinh dịch:
Mật độ tinh trùng trung bình ở nhóm đối chứng thấp hơn khi so với nhóm can thiệp (11,32 ± 8,44 so với 16,06 ± 15,16, P = 0,030).
Tỉ lệ di động tiến tới trung bình của nhóm đối chứng thấp hơn đáng kể so với nhóm can thiệp (8,86 ± 7,79% so với 85,03 ± 9,64%, P=0,014).
Tỉ lệ hình thái tinh trùng bình thường không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm (1,63 ± 1,44% so với 1,81 ± 3,68%, P=0,628).
Thể tích tinh dịch cũng không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm (2,13 ± 0,82) so với 2,24 ± 1,43, P = 0,663).
Ngoài ra, tác động của PRP lên sự phân mảnh DNA (DNA fragmentation index - DFI): Tỉ lệ tinh trùng phân mảnh DNA ở nhóm can thiệp thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng (17,23 ± 9,15% so với 25,62 ± 12,84%, P <0,001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cải thiện đáng kể về mật độ tinh trùng, khả năng di động tiến tới và DFI sau khi tiêm PRP. Sự gia tăng nồng độ và khả năng di động đặc biệt đáng chú ý vì những yếu tố này quan trọng cho quá trình thụ tinh và mang thai thành công. Bên cạnh đó sự phân mảnh DNA, một yếu tố được biết là có tác động tiêu cực đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản cũng giảm đáng kể ở nhóm can thiệp tiêm PRP. Những phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu tương tự trước đó, cho thấy rằng phương pháp can thiệp PRP có thể cải thiện các thông số tinh trùng ở nam giới mắc OAT nghiêm trọng.
Sự cải thiện các thông số tinh trùng được quan sát thấy có thể là do các yếu tố tăng trưởng có trong PRP. PRP chứa nhiều yếu tố tăng trưởng khác nhau, chẳng hạn như: PDGF, TGF-β, IGF, FGF, VEGF,… Các yếu tố tăng trưởng này có đặc tính tái tạo và phục hồi, có khả năng tăng cường sản xuất tinh trùng, khả năng vận động và tính toàn vẹn của DNA.
Không có sự khác biệt nào đáng kể được quan sát thấy về hình thái tinh trùng và thể tích tinh dịch giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng trong nghiên cứu này. Cần nghiên cứu thêm để đánh giá tác động của PRP đối với các thông số này và xác định tác động lâu dài của phương pháp điều trị PRP đối với kết quả khả năng sinh sản của nam giới.
Những phát hiện của nghiên cứu này cho thấy tiềm năng của PRP trong cải thiện thông số tinh trùng ở nam giới OAT nặng, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với cả nghiên cứu trong tương lai và thực hành lâm sàng. Các nghiên cứu trong tương lai cần thăm dò các con đường phân tử phức tạp và các yếu tố tăng trưởng liên quan đến việc cải thiện các thông số tinh trùng sau khi tiêm PRP. Ngoài ra, cũng cần xác định tác động lâu dài của phương pháp điều trị PRP đối với khả năng sinh sản của nam giới.
Về mặt ý nghĩa lâm sàng, PRP có thể là một phương pháp điều trị tự thân ít xâm lấn hơn, một lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả hơn thay thế cho các phương pháp thông thường như liệu pháp hormone hoặc các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu sâu hơn để xác nhận những phát hiện này và làm sáng tỏ các cơ chế cơ bản của tác động của PRP lên các thông số tinh trùng.
Nguồn: Fazli, Faezeh, et al. "Effects of Testicular Platelet-Rich Plasma Injection on Sperm Parameters in Men with Severe Oligoasthenoteratozoospermia: A Clinical Trial Evaluation." International Journal of Fertility & Sterility 18.Suppl 1 (2024): 71.
Link bài báo: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/39033373/
Các tin khác cùng chuyên mục:










HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK