Tin tức
on Saturday 17-07-2021 4:41pm
Danh mục: Tin quốc tế
NHS Trần Thị Diểm Hân- Đơn vị HTSS, Bệnh viện Mỹ Đức
Ngày nay, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) đã trở thành một kỹ thuật điều trị phổ biến trên toàn thế giới. Mặc dù tỷ lệ thai lâm sàng đã dần được cải thiện trong thời gian qua, tỷ lệ sinh sống vẫn ở mức thấp, chỉ ở mức khoảng 30 – 40%. Sẩy thai (PL – pregnancy loss) là sự mất đi tự nhiên của một phôi thai trong suốt thai kỳ. Tình trạng này bao gồm sẩy thai không quan sát được và mất thai có biểu hiện lâm sàng. Sẩy thai đe dọa đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Các nghiên cứu về thai kỳ sau ART ghi nhận tỷ lệ sẩy thai cao hơn phụ nữ thụ thai tự nhiên. Ngoài ra, sẩy thai còn gắn liền với sang chấn về thể chất và tinh thần, đặc biệt hơn trong bối cảnh bệnh nhân khó có con. Do đó, việc khảo sát các yếu tố rủi ro đối với sẩy thai là hết sức quan trọng để cải thiện hiệu quả của điều trị thụ tinh trong ống nghiệm và tư vấn hiệu quả hơn cho bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu của Yang và cộng sự vừa công bố trên Tạp chí Frontiers in Endocrinology đã khảo sát các yếu tố nguy cơ của tình trạng sẩy thai trên 15120 thai kỳ sau các chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ trong thời gian từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2019.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ sẩy thai trong suốt thai kỳ. Kết cục phụ là khảo sát các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng này thông qua phân tích hồi quy đa biến.
Kết quả nghiên cứu ghi nhận so với nhóm phụ nữ dưới 35 tuổi, nhóm phụ nữ từ 35 đến 40 tuổi có nguy cơ sẩy thai cao hơn [odds ratio (OR) 1,49, khoảng tin cậy (KTC) 95% 1,22-1,83]. Phụ nữ sau 40 tuổi có nguy cơ sẩy thai sớm và muộn cao hơn (OR 3,82, KTC 95%, 2,65 – 5,51). Xu hướng tương tự cũng được ghi nhận ở nhóm phụ nữ béo phì (OR và KTC 95% lần lượt là 1,38; 1,47;1,8 và 1,16 – 1,65; 1,14 – 1,91; 1,33 – 2,44). Hội chứng buồng trứng đa nang là yếu tố nguy cơ sẩy thai dù có béo phì hay không (OR 1,58, KTC 95% 1,28 – 1,96). Phụ nữ có các yếu tố bất thường về tử cung (dị tật bẩm sinh tử cung, tiền căn dính lòng tử cung, u xơ cơ tử cung, polyp lòng tử cung chưa xử trí) có nguy cơ sẩy thai sớm cao hơn so với phụ nữ không có yếu tố bất thường tử cung (OR 1,77; KTC 95% 1,32-2,38). Mối tương quan nghịch cũng được ghi nhận giữa độ dày của nội mạc tử cung và sẩy thai (OR 0,95 KTC 95% 0,92-0,97). Nguy cơ sẩy thai tăng lên sau khi chuyển phôi đông lạnh rã đông so với chuyển phôi tươi (OR 1,12, KTC 95% 1,01-1,24). Những phụ nữ chuyển ≥2 phôi cho thấy nguy cơ sẩy thai thấp hơn so với những phụ nữ chuyển một phôi duy nhất, với OR hiệu chỉnh dao động từ 0,57 – 0,94. Tuy nhiên, nguy cơ sẩy thai tăng lên khi chuyển ba phôi so với chuyển đơn phôi (OR 2,23, KTC 95% 1,36 – 3,66).
Như vậy, tuổi của mẹ và béo phì là hai yếu tố nguy cơ quan trọng nhất liên quan đến tình trạng sẩy thai. Bệnh nhân có yếu tố bất thường tử cung có nguy cơ sẩy thai sớm và thai lưu cao hơn. Thừa cân, hội chứng buồng trứng đa nang và chuyển ba phôi có liên quan đến sẩy thai muộn. Ở tuổi 40 trở đi, béo phì và chuyển phôi đông lạnh có liên quan đến sẩy thai sớm và muộn. Các chiến lược giảm cân cần được khuyến khích nhằm mang lại kết cục thai kỳ tốt hơn cho bệnh nhân điều trị thụ tinh ống nghiệm. Cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn khảo sát các cơ chế ảnh hưởng đến các yếu tố này.
Nguồn: Yang AM, Xu X, Han Y, Wei JJ, Hao GM, Cui N, Zhao ZM, Wang W, Huang X. Risk Factors for Different Types of Pregnancy Losses: Analysis of 15,210 Pregnancies After Embryo Transfer. Front Endocrinol (Lausanne). 2021 Jun 25;12:683236. doi: 10.3389/fendo.2021.683236. PMID: 34248846; PMCID: PMC8267909.
Ngày nay, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) đã trở thành một kỹ thuật điều trị phổ biến trên toàn thế giới. Mặc dù tỷ lệ thai lâm sàng đã dần được cải thiện trong thời gian qua, tỷ lệ sinh sống vẫn ở mức thấp, chỉ ở mức khoảng 30 – 40%. Sẩy thai (PL – pregnancy loss) là sự mất đi tự nhiên của một phôi thai trong suốt thai kỳ. Tình trạng này bao gồm sẩy thai không quan sát được và mất thai có biểu hiện lâm sàng. Sẩy thai đe dọa đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Các nghiên cứu về thai kỳ sau ART ghi nhận tỷ lệ sẩy thai cao hơn phụ nữ thụ thai tự nhiên. Ngoài ra, sẩy thai còn gắn liền với sang chấn về thể chất và tinh thần, đặc biệt hơn trong bối cảnh bệnh nhân khó có con. Do đó, việc khảo sát các yếu tố rủi ro đối với sẩy thai là hết sức quan trọng để cải thiện hiệu quả của điều trị thụ tinh trong ống nghiệm và tư vấn hiệu quả hơn cho bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu của Yang và cộng sự vừa công bố trên Tạp chí Frontiers in Endocrinology đã khảo sát các yếu tố nguy cơ của tình trạng sẩy thai trên 15120 thai kỳ sau các chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ trong thời gian từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2019.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ sẩy thai trong suốt thai kỳ. Kết cục phụ là khảo sát các yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng này thông qua phân tích hồi quy đa biến.
Kết quả nghiên cứu ghi nhận so với nhóm phụ nữ dưới 35 tuổi, nhóm phụ nữ từ 35 đến 40 tuổi có nguy cơ sẩy thai cao hơn [odds ratio (OR) 1,49, khoảng tin cậy (KTC) 95% 1,22-1,83]. Phụ nữ sau 40 tuổi có nguy cơ sẩy thai sớm và muộn cao hơn (OR 3,82, KTC 95%, 2,65 – 5,51). Xu hướng tương tự cũng được ghi nhận ở nhóm phụ nữ béo phì (OR và KTC 95% lần lượt là 1,38; 1,47;1,8 và 1,16 – 1,65; 1,14 – 1,91; 1,33 – 2,44). Hội chứng buồng trứng đa nang là yếu tố nguy cơ sẩy thai dù có béo phì hay không (OR 1,58, KTC 95% 1,28 – 1,96). Phụ nữ có các yếu tố bất thường về tử cung (dị tật bẩm sinh tử cung, tiền căn dính lòng tử cung, u xơ cơ tử cung, polyp lòng tử cung chưa xử trí) có nguy cơ sẩy thai sớm cao hơn so với phụ nữ không có yếu tố bất thường tử cung (OR 1,77; KTC 95% 1,32-2,38). Mối tương quan nghịch cũng được ghi nhận giữa độ dày của nội mạc tử cung và sẩy thai (OR 0,95 KTC 95% 0,92-0,97). Nguy cơ sẩy thai tăng lên sau khi chuyển phôi đông lạnh rã đông so với chuyển phôi tươi (OR 1,12, KTC 95% 1,01-1,24). Những phụ nữ chuyển ≥2 phôi cho thấy nguy cơ sẩy thai thấp hơn so với những phụ nữ chuyển một phôi duy nhất, với OR hiệu chỉnh dao động từ 0,57 – 0,94. Tuy nhiên, nguy cơ sẩy thai tăng lên khi chuyển ba phôi so với chuyển đơn phôi (OR 2,23, KTC 95% 1,36 – 3,66).
Như vậy, tuổi của mẹ và béo phì là hai yếu tố nguy cơ quan trọng nhất liên quan đến tình trạng sẩy thai. Bệnh nhân có yếu tố bất thường tử cung có nguy cơ sẩy thai sớm và thai lưu cao hơn. Thừa cân, hội chứng buồng trứng đa nang và chuyển ba phôi có liên quan đến sẩy thai muộn. Ở tuổi 40 trở đi, béo phì và chuyển phôi đông lạnh có liên quan đến sẩy thai sớm và muộn. Các chiến lược giảm cân cần được khuyến khích nhằm mang lại kết cục thai kỳ tốt hơn cho bệnh nhân điều trị thụ tinh ống nghiệm. Cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn khảo sát các cơ chế ảnh hưởng đến các yếu tố này.
Nguồn: Yang AM, Xu X, Han Y, Wei JJ, Hao GM, Cui N, Zhao ZM, Wang W, Huang X. Risk Factors for Different Types of Pregnancy Losses: Analysis of 15,210 Pregnancies After Embryo Transfer. Front Endocrinol (Lausanne). 2021 Jun 25;12:683236. doi: 10.3389/fendo.2021.683236. PMID: 34248846; PMCID: PMC8267909.
Từ khóa: Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sẩy thai: một phân tích trên 15210 thai kỳ sau chuyển phôi
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên hệ của góc giữa thoi vô sắc - thể cực thứ nhất với khả năng trưởng thành của noãn và kết quả điều trị - Ngày đăng: 17-07-2021
Hệ thống CRISPR/CAS9 và tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực vô sinh nam - Ngày đăng: 17-07-2021
Sử dụng công nghệ time ‑ lapse để phát hiện sự hình thành không bào trong phôi ngày 3 và phôi ngày 4 - Ngày đăng: 15-07-2021
Phát triển một phần mềm phân tích tự động động học của phôi người - Ngày đăng: 15-07-2021
Liệu các thông số động học hình thái có thể tiên lượng được phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai hay không ? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các phương pháp bổ trợ trong IVF – bằng chứng khoa học và thực hành hiện tại? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trung tâm hỗ trợ sinh sản của các cặp vợ chồng hiếm muộn - Ngày đăng: 13-07-2021
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của carcinosarcomas buồng trứng - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ sinh đôi khi chuyển hai phôi ở phụ nữ hiếm muộn lớn tuổi - Ngày đăng: 13-07-2021
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK