Tin tức
Sử dụng công nghệ time ‑ lapse để phát hiện sự hình thành không bào trong phôi ngày 3 và phôi ngày 4
on Thursday 15-07-2021 4:53pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Không bào là một hiện tượng xuất hiện trong phôi ở các giai đoạn phát triển của phôi tiềm làm tổ. Không bào là một túi chứa dịch lỏng ở trong tế bào chất, dịch này có nguồn gốc từ khoảng không quanh noãn.
Theo Ebner và cộng sự (2005), đã phân loại không bào thành 3 loại: (1) không bào hiện diện ở noãn, chúng có thể phát triển hình thành trong quá trình trưởng thành noãn, (2) không bào được tạo ra do ICSI bởi chuyên viên phôi học tiêm lượng môi trường ngoài vào bào tương noãn, (3) không bào ở phôi hình thành cùng với sự ngừng phát triển của phôi. Tất cả 3 loại không bào có thể quan sát thấy trong quá trình nuôi cấy phôi in vitro. Tỉ lệ bệnh nhân có ít nhất 1 phôi xuất hiện không bào trong suốt quá trình phát triển là 36,6%. Và tần xuất không bào xuất hiện ở phôi giai đoạn phôi nén cao hơn đáng kể so với ở giai đoạn 2-8 phôi bào (Ebner và cộng sự, 2005).
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều chú trọng đến không bào ở noãn, là một dạng bất thường hình thái noãn. Bất thường này có tương quan đến tỉ lệ thụ tinh, sự phát triển hoàn thiện của phôi sau này. Chỉ có một số nghiên cứu về không bào loại 3 là không bào xuất hiện ở phôi ở giai đoạn phân chia.
Việc nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (time-lapse) sẽ giúp hiểu rõ hơn về sự hình thành không bào trong phôi. Theo nhóm các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã ghi nhận tần xuất không bào xuất hiện ở giai đoạn 8 phôi bào đến khi phôi dâu cao hơn đáng kể so với các giai đoạn phôi phân chia khác khi nuôi cấy phôi trong tủ time-lapse. Chính vì thế, nhóm này đã tiến hành một nghiên cứu (2018) để đánh giá sự xuất hiện và trạng thái phát triển của không bào phôi giữa giai đoạn 8 phôi bào và phôi dâu. Đồng thời cũng phân tích không bào ở giai đoạn này ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của phôi.
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 422 bệnh nhân điều trị IVF/ ICSI. Kết quả phôi và thai kỳ được so sánh giữa các phôi ngày 3 và ngày 4 có không bào (n=278) với phôi không có không bào (n=386). Không bào đánh giá trong nghiên cứu là không bào hình thành nội tại ở phôi ngày 3 chất lượng tốt có ít nhất là 8 phôi bào. Còn các phôi ít hơn 8 phôi bào mà bắt đầu xuất hiện không bào thì không được nhận vào nghiên cứu.
Khi quan sát time-lapse, sẽ thấy được không bào bắt đầu xuất hiện và phát triển, cũng như chúng ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi như thế nào. Thời điểm không bào bắt đầu xuất hiện ở mỗi phôi được ghi nhận. Số phôi bào có hoặc không có không bào trong mỗi phôi được đếm trước khi phôi nén (compacting). Phôi nang được đánh giá bằng hình thái học theo 3 thông số: độ nở rộng khoang phôi (EH), chất lượng khối nội mô (ICM), chất lượng lớp tế bào lá nuôi (TE). Chất lượng phôi nang được phân thành 4 loại theo hệ thống của Gardner và Schoolcraft (2000): Xuất sắc (Best): EH(4–6), ICM(A) + TE(A). Tốt (Good): EH(4–6), ICM(A) + TE(B), ICM(B) + TE(A), ICM(B) + TE(B). Trung bình (Fair): EH(4–6), ICM(A) + TE(C), ICM(B) + TE(C). Huỷ không sử dụng được: EH(3–6), ICM(C) + TE(B), ICM(C) + TE(C); EH(1–2), ICM, và TE không phân loại được; phôi thất bại khi tạo khoang phôi hoặc khi nén chặt hoàn toàn (compacted).
Một số kết quả ghi nhận được là:
Như vây, việc xuất hiện không bào ở phôi ngày 3 và phôi ngày 4 thường được quan sát thấy và có gây bất lợi cho sự phát triển của phôi. Tỷ lệ phôi bào có không bào có thể là một chỉ số đánh giá về tiềm năng phát triển của phôi.
Nguồn: Using time‑lapse technology to explore vacuolization in embryos on Day 3 and Day 4, Archives of Gynecology and Obstetrics, 2019, https://doi.org/10.1007/s00404-018-5008-x
Không bào là một hiện tượng xuất hiện trong phôi ở các giai đoạn phát triển của phôi tiềm làm tổ. Không bào là một túi chứa dịch lỏng ở trong tế bào chất, dịch này có nguồn gốc từ khoảng không quanh noãn.
Theo Ebner và cộng sự (2005), đã phân loại không bào thành 3 loại: (1) không bào hiện diện ở noãn, chúng có thể phát triển hình thành trong quá trình trưởng thành noãn, (2) không bào được tạo ra do ICSI bởi chuyên viên phôi học tiêm lượng môi trường ngoài vào bào tương noãn, (3) không bào ở phôi hình thành cùng với sự ngừng phát triển của phôi. Tất cả 3 loại không bào có thể quan sát thấy trong quá trình nuôi cấy phôi in vitro. Tỉ lệ bệnh nhân có ít nhất 1 phôi xuất hiện không bào trong suốt quá trình phát triển là 36,6%. Và tần xuất không bào xuất hiện ở phôi giai đoạn phôi nén cao hơn đáng kể so với ở giai đoạn 2-8 phôi bào (Ebner và cộng sự, 2005).
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều chú trọng đến không bào ở noãn, là một dạng bất thường hình thái noãn. Bất thường này có tương quan đến tỉ lệ thụ tinh, sự phát triển hoàn thiện của phôi sau này. Chỉ có một số nghiên cứu về không bào loại 3 là không bào xuất hiện ở phôi ở giai đoạn phân chia.
Việc nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (time-lapse) sẽ giúp hiểu rõ hơn về sự hình thành không bào trong phôi. Theo nhóm các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã ghi nhận tần xuất không bào xuất hiện ở giai đoạn 8 phôi bào đến khi phôi dâu cao hơn đáng kể so với các giai đoạn phôi phân chia khác khi nuôi cấy phôi trong tủ time-lapse. Chính vì thế, nhóm này đã tiến hành một nghiên cứu (2018) để đánh giá sự xuất hiện và trạng thái phát triển của không bào phôi giữa giai đoạn 8 phôi bào và phôi dâu. Đồng thời cũng phân tích không bào ở giai đoạn này ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của phôi.
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 422 bệnh nhân điều trị IVF/ ICSI. Kết quả phôi và thai kỳ được so sánh giữa các phôi ngày 3 và ngày 4 có không bào (n=278) với phôi không có không bào (n=386). Không bào đánh giá trong nghiên cứu là không bào hình thành nội tại ở phôi ngày 3 chất lượng tốt có ít nhất là 8 phôi bào. Còn các phôi ít hơn 8 phôi bào mà bắt đầu xuất hiện không bào thì không được nhận vào nghiên cứu.
Khi quan sát time-lapse, sẽ thấy được không bào bắt đầu xuất hiện và phát triển, cũng như chúng ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi như thế nào. Thời điểm không bào bắt đầu xuất hiện ở mỗi phôi được ghi nhận. Số phôi bào có hoặc không có không bào trong mỗi phôi được đếm trước khi phôi nén (compacting). Phôi nang được đánh giá bằng hình thái học theo 3 thông số: độ nở rộng khoang phôi (EH), chất lượng khối nội mô (ICM), chất lượng lớp tế bào lá nuôi (TE). Chất lượng phôi nang được phân thành 4 loại theo hệ thống của Gardner và Schoolcraft (2000): Xuất sắc (Best): EH(4–6), ICM(A) + TE(A). Tốt (Good): EH(4–6), ICM(A) + TE(B), ICM(B) + TE(A), ICM(B) + TE(B). Trung bình (Fair): EH(4–6), ICM(A) + TE(C), ICM(B) + TE(C). Huỷ không sử dụng được: EH(3–6), ICM(C) + TE(B), ICM(C) + TE(C); EH(1–2), ICM, và TE không phân loại được; phôi thất bại khi tạo khoang phôi hoặc khi nén chặt hoàn toàn (compacted).
Một số kết quả ghi nhận được là:
- Trong số 422 bệnh nhân có ít nhất 1 phôi ngày 3 chất lượng tốt thì 119 bệnh nhân (28,2%) có phôi ngày 3 chất lượng tốt xuất hiện không bào. Đặc điểm nền bệnh nhân và tỉ lệ thụ tinh, thụ tinh bình thường là tương đương giữa chu kỳ bệnh nhân có phôi không bào với chu kỳ không có phôi không bào.
- Phôi ngày 3 và ngày 4 xuất hiện không bào sẽ có tỉ lệ tạo thành phôi nang (78,7% so với 88,3%, p= 0,01) và tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt (59,2% so với 71%, p= 0,01) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với phôi không có không bào.
- Tỉ lệ làm tổ và sẩy thai giữa 2 nhóm phôi không có sự khác biệt đáng kể (p > 0,05).
- Sự xuất hiện không bào ở phôi ngày 3 và phôi ngày 4 sẽ tác động xấu đến chất lượng phôi nang. Tỉ lệ phôi nang loại xuất sắc và tốt ở phôi có không bào thấp hơn đáng kể (lần lượt là 7,7% so với 19,9, p = 0,000; 27,9% so với 39,1, p = 0,002). Do đó tỉ lệ phôi nang chất lượng kém hoặc không sử dụng được cao hơn đáng kể ở nhóm phôi có không bào (p < 0,05).
- Thời điểm không bào bắt đầu xuất hiện trung bình là 73,7 ± 9,3 giờ sau khi thụ tinh. Do đó, nếu nuôi cấy và đánh giá phôi truyền thống bằng hình thái thì có thể sẽ bỏ lỡ thời điểm này. Tuy nhiên, thời điểm không bào bắt đầu xuất hiện không có liên quan đến chất lượng phôi nang (p > 0,05).
- Tỷ lệ phôi bào xuất hiện không bào trên tổng số phôi bào có liên quan đến khả năng phát triển của phôi thông qua chất lượng phôi nang. Tỷ lệ phôi bào xuất hiện không bào cao dần từ nhóm phôi nang chất lượng xuất sắc, tốt đến nhóm phôi nang chất lượng trung bình, không sử dụng lần lượt là 13,3% (44/330), 20,8% (239/1148), 26,7% (227/850), 34% (454/1336) (p< 0,05). Quan sát thấy phôi ngày 3 có nhiều không bào trong một phôi bào sẽ cho kết cục phát triển phôi nang tốt hơn phôi có không bào rải rác ở một số phôi bào. Tuy nhiên, việc đếm số lượng và đo kích thước không bào trong phôi tại một thời điểm cụ thể là công việc khó khăn và không cần thiết trong tiên lượng chính xác tiềm năng phát triển của phôi.
Như vây, việc xuất hiện không bào ở phôi ngày 3 và phôi ngày 4 thường được quan sát thấy và có gây bất lợi cho sự phát triển của phôi. Tỷ lệ phôi bào có không bào có thể là một chỉ số đánh giá về tiềm năng phát triển của phôi.
Nguồn: Using time‑lapse technology to explore vacuolization in embryos on Day 3 and Day 4, Archives of Gynecology and Obstetrics, 2019, https://doi.org/10.1007/s00404-018-5008-x
Từ khóa: Time-lapse, không bào, tỉ lệ tạo phôi nang, phôi nang chất lượng tốt, tiềm năng phát triển của phôi
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phát triển một phần mềm phân tích tự động động học của phôi người - Ngày đăng: 15-07-2021
Liệu các thông số động học hình thái có thể tiên lượng được phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai hay không ? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các phương pháp bổ trợ trong IVF – bằng chứng khoa học và thực hành hiện tại? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trung tâm hỗ trợ sinh sản của các cặp vợ chồng hiếm muộn - Ngày đăng: 13-07-2021
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của carcinosarcomas buồng trứng - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ sinh đôi khi chuyển hai phôi ở phụ nữ hiếm muộn lớn tuổi - Ngày đăng: 13-07-2021
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
Nghiên cứu hồi cứu: mối liên hệ giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong các chu kì chuyển phôi tươi ở các nhóm tuổi bệnh nhân khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA VIRUS VIÊM GAN SIÊU VI B, C LÊN CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ thai lạc chỗ và thai đúng vị trí kết hợp thai lạc chỗ sau chuyển phôi trữ giai đoạn phôi nang và phôi phân chia: Nghiên cứu từ dữ liệu của SART CORS - Ngày đăng: 13-07-2021
Chức năng kháng oxy hóa của HDL dịch nang - Ngày đăng: 13-07-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK