Tin tức
on Thursday 15-07-2021 4:44pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Sẩy thai là hiện tượng thường gặp chiếm khoảng 10-15% thai lâm sàng sau khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Hơn nữa, sẩy thai sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người phụ nữ như tâm lý cảm xúc nặng nề buồn chán, nản chí trong công cuộc tìm kiếm con cái. Chính vì thế, cần có một phương pháp có thể tiên lượng phát hiện phôi TTTON có thể gây sẩy thai, từ đó không dùng những phôi này để chuyển cho bệnh nhân. Nhờ đó, có thể ngăn chặn hạn chế việc sẩy thai sau khi chuyển phôi nhằm mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và trung tâm TTTON.
Có khoảng 60% trường hợp sẩy thai có nguồn gốc từ chuyển phôi bất thường số lượng nhiễm sắc thể (lệch bội) (Levy và cộng sự, 2014). Với sự phát triển của kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiềm làm tổ lệch bội (PGT-A) có thể cải thiện việc phát hiện bất thường nhiễm sắc thể. Do đó, PGT-A đã được áp dụng phổ biến ở hầu hết các trung tâm TTTON trên thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp sẩy thai sau TTTON đều là phôi lệch bội, mà phôi nguyên bội vẫn cho kết quả sẩy thai. Hiện tại vẫn chưa biết rõ lý do tại sao phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai.
Hệ thống nuôi cấy kết hợp với camera quan sát liên tục (TLM) cho phép theo dõi xuyên suốt các sự kiện phân chia phát triển của phôi tiềm làm tổ. Nhờ đó, TLM đã trở thành công cụ hữu hiệu giúp chuyên viên phôi học đánh giá lựa chọn phôi bằng động học hình thái phôi nhằm cải thiện kết quả điều trị. Một số nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng các thông số động học chủ yếu là thời điểm phân chia của phôi giai đoạn sớm có tương quan đến kết cục thai lâm sàng. Nghiên cứu đoàn hệ của Nogales và cộng sự (2017) thực hiện trên 485 phôi PGT-A, trong đó 185 phôi nguyên bội và 300 phôi lệch bội. Phôi lệch bội thể tam bội thể hiện động học phát triển tương đương với phôi nguyên bội; trong khi phôi bất thường phức hợp trên nhiều hơn 1 nhiễm sắc thể phát triển nhanh hơn phôi nguyên bội. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng phôi lệch bội có các thông số động học phát triển lên phôi nang chậm hơn so với phôi nguyên bội. Nghiên cứu của Rienzi và cộng sự (2019), đã cho thấy thời điểm hình thành phôi dâu và chất lượng hình thái của lớp tế bào lá nuôi (TE) là những yếu tố tiên lượng trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi nguyên bội. Vậy có thể dùng các thông số động học hình thái để tiên lượng được phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai hay không ?
Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm các nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đơn trung tâm nhằm so sánh các thông số động học phát triển của phôi nguyên bội sẩy thai với phôi nguyên bội đạt trẻ sinh sống. Các bệnh nhân được chuyển một phôi nguyên bội (PGT-A) từ tháng 10/2015 đến 1/2018. Phôi của các bệnh nhân này được nuôi cấy trong hệ thống TLM tủ cấy EmbryoScope (Fertilitech). Các thông số động học được đánh giá là thời điểm xuất hiện tiền nhân (tPNf), thời điểm phôi đạt 2, 3, 4, 8 tế bào (t2, t3, t4, t8), phôi dâu (tM), phôi nang (tB) được ghi nhận phân tích. Sinh thiết phôi ngày 5 và phôi ngày 6 thu nhận tế bào TE để phân tích di truyền PGT-A. Kỹ thuật PGT-A là SNP array hoặc giải trình gen thế hệ mới (NGS). Chất lượng hình thái TE và ICM được chấm theo thang điểm 1-3 điểm tương ứng từ tốt đến xấu. Các kết quả thai kỳ được ghi nhận sau khi chuyển phôi nguyên bội.
Kết quả ghi nhận được là:
Như vậy, phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai không thể hiện bất thường về động học phát triển khi theo dõi liên tục bằng hệ thống TLM. Phôi nguyên bội mà cho kết quả sẩy thai có thể do các yếu tố từ nội mạc tử cung hay từ phôi. Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu kết quả sẩy thai sau PGT-A rất nhỏ chỉ có 13 phôi sẩy thai và 15 thai sinh hoá. Trong tương lai, cần nghiên cứu các yếu tố có thể tiên lượng phôi nguyên bội nhưng cho kết quả sẩy thai, từ đó không dùng những phôi này để chuyển cho bệnh nhân.
Nguồn: Can embryo morphokinetic parameters predict euploid pregnancy loss ?, Fertil. Steril. (2020), https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.08.021
Sẩy thai là hiện tượng thường gặp chiếm khoảng 10-15% thai lâm sàng sau khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Hơn nữa, sẩy thai sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người phụ nữ như tâm lý cảm xúc nặng nề buồn chán, nản chí trong công cuộc tìm kiếm con cái. Chính vì thế, cần có một phương pháp có thể tiên lượng phát hiện phôi TTTON có thể gây sẩy thai, từ đó không dùng những phôi này để chuyển cho bệnh nhân. Nhờ đó, có thể ngăn chặn hạn chế việc sẩy thai sau khi chuyển phôi nhằm mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và trung tâm TTTON.
Có khoảng 60% trường hợp sẩy thai có nguồn gốc từ chuyển phôi bất thường số lượng nhiễm sắc thể (lệch bội) (Levy và cộng sự, 2014). Với sự phát triển của kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiềm làm tổ lệch bội (PGT-A) có thể cải thiện việc phát hiện bất thường nhiễm sắc thể. Do đó, PGT-A đã được áp dụng phổ biến ở hầu hết các trung tâm TTTON trên thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp sẩy thai sau TTTON đều là phôi lệch bội, mà phôi nguyên bội vẫn cho kết quả sẩy thai. Hiện tại vẫn chưa biết rõ lý do tại sao phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai.
Hệ thống nuôi cấy kết hợp với camera quan sát liên tục (TLM) cho phép theo dõi xuyên suốt các sự kiện phân chia phát triển của phôi tiềm làm tổ. Nhờ đó, TLM đã trở thành công cụ hữu hiệu giúp chuyên viên phôi học đánh giá lựa chọn phôi bằng động học hình thái phôi nhằm cải thiện kết quả điều trị. Một số nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng các thông số động học chủ yếu là thời điểm phân chia của phôi giai đoạn sớm có tương quan đến kết cục thai lâm sàng. Nghiên cứu đoàn hệ của Nogales và cộng sự (2017) thực hiện trên 485 phôi PGT-A, trong đó 185 phôi nguyên bội và 300 phôi lệch bội. Phôi lệch bội thể tam bội thể hiện động học phát triển tương đương với phôi nguyên bội; trong khi phôi bất thường phức hợp trên nhiều hơn 1 nhiễm sắc thể phát triển nhanh hơn phôi nguyên bội. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng phôi lệch bội có các thông số động học phát triển lên phôi nang chậm hơn so với phôi nguyên bội. Nghiên cứu của Rienzi và cộng sự (2019), đã cho thấy thời điểm hình thành phôi dâu và chất lượng hình thái của lớp tế bào lá nuôi (TE) là những yếu tố tiên lượng trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi nguyên bội. Vậy có thể dùng các thông số động học hình thái để tiên lượng được phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai hay không ?
Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm các nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đơn trung tâm nhằm so sánh các thông số động học phát triển của phôi nguyên bội sẩy thai với phôi nguyên bội đạt trẻ sinh sống. Các bệnh nhân được chuyển một phôi nguyên bội (PGT-A) từ tháng 10/2015 đến 1/2018. Phôi của các bệnh nhân này được nuôi cấy trong hệ thống TLM tủ cấy EmbryoScope (Fertilitech). Các thông số động học được đánh giá là thời điểm xuất hiện tiền nhân (tPNf), thời điểm phôi đạt 2, 3, 4, 8 tế bào (t2, t3, t4, t8), phôi dâu (tM), phôi nang (tB) được ghi nhận phân tích. Sinh thiết phôi ngày 5 và phôi ngày 6 thu nhận tế bào TE để phân tích di truyền PGT-A. Kỹ thuật PGT-A là SNP array hoặc giải trình gen thế hệ mới (NGS). Chất lượng hình thái TE và ICM được chấm theo thang điểm 1-3 điểm tương ứng từ tốt đến xấu. Các kết quả thai kỳ được ghi nhận sau khi chuyển phôi nguyên bội.
Kết quả ghi nhận được là:
- Tổng cộng 192 phôi nguyên bội được chuyển, với tỉ lệ thai là 78% (150/193) và tỉ lệ trẻ sinh sống là 63% (121/193).
- Khi phân tích các đặc điểm nền bệnh nhân thì một số đặc điểm như số noãn trưởng thành, số noãn thụ tinh, điểm số chất lượng hình thái ICM, điểm số chất lượng hình thái TE có sự khác biệt đáng kể giữa phôi nguyên bội sẩy thai và phôi nguyên bội đạt trẻ sinh sống. Những đặc điểm nền là các yếu tố gây nhiễu nên sẽ được điều chỉnh khi phân tích so sánh các thông số động học giữa 2 nhóm phôi này.
- Không có phôi nào chuyển có chất lượng ICM hoặc TE 3 điểm. Các phôi cho kết quả trẻ sinh sống có chất lượng ICM và TE 1 điểm nhiều hơn đáng kể so với phôi không có thai (beta-hCG âm tính) (tương ứng p < 0,01 và p < 0,03). Các phôi cho kết quả trẻ sinh sống có chất lượng TE 1 điểm nhiều hơn đáng kể so với phôi sẩy thai (p = 0,01). Không có sự khác biệt về điểm số chất lượng hình thái phôi giữa phôi cho kết quả trẻ sinh sống và phôi cho thai sinh hoá.
- Không có sự khác biệt về thông số động học giữa các phôi nguyên bội cho kết quả trẻ sinh sống với phôi nguyên bội không cho kết quả trẻ sinh sống (beta-hCG âm tính, sẩy thai lâm sàng và thai sinh hoá).
- Thời điểm hình thành phôi dâu (tM) và phôi nang (tB) ở nhóm phôi nguyên bội sẩy thai chậm hơn so với phôi đạt trẻ sinh sống, lần lượt là 2,53 giờ và 3,25 giờ. Nhưng tất cả các thông số động học không có sự khác biệt giữa các phôi cho kết quả trẻ sinh sống với phôi cho kết quả sẩy thai (sẩy thai lâm sàng và thai sinh hoá) ngay cả khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu.
Như vậy, phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai không thể hiện bất thường về động học phát triển khi theo dõi liên tục bằng hệ thống TLM. Phôi nguyên bội mà cho kết quả sẩy thai có thể do các yếu tố từ nội mạc tử cung hay từ phôi. Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu kết quả sẩy thai sau PGT-A rất nhỏ chỉ có 13 phôi sẩy thai và 15 thai sinh hoá. Trong tương lai, cần nghiên cứu các yếu tố có thể tiên lượng phôi nguyên bội nhưng cho kết quả sẩy thai, từ đó không dùng những phôi này để chuyển cho bệnh nhân.
Nguồn: Can embryo morphokinetic parameters predict euploid pregnancy loss ?, Fertil. Steril. (2020), https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.08.021
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các phương pháp bổ trợ trong IVF – bằng chứng khoa học và thực hành hiện tại? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trung tâm hỗ trợ sinh sản của các cặp vợ chồng hiếm muộn - Ngày đăng: 13-07-2021
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của carcinosarcomas buồng trứng - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ sinh đôi khi chuyển hai phôi ở phụ nữ hiếm muộn lớn tuổi - Ngày đăng: 13-07-2021
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
Nghiên cứu hồi cứu: mối liên hệ giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong các chu kì chuyển phôi tươi ở các nhóm tuổi bệnh nhân khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA VIRUS VIÊM GAN SIÊU VI B, C LÊN CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ thai lạc chỗ và thai đúng vị trí kết hợp thai lạc chỗ sau chuyển phôi trữ giai đoạn phôi nang và phôi phân chia: Nghiên cứu từ dữ liệu của SART CORS - Ngày đăng: 13-07-2021
Chức năng kháng oxy hóa của HDL dịch nang - Ngày đăng: 13-07-2021
Khả năng sửa chữa phân mảnh DNA tinh trùng của noãn: ảnh hưởng của tuổi mẹ trên kết quả ICSI - Ngày đăng: 12-07-2021
Thuốc chủng ngừa COVID-19 có an toàn trong thai kỳ hay không? - Ngày đăng: 12-07-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK