Tin tức
on Saturday 17-07-2021 4:40pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Võ Minh Tuấn – IVFMD Tân Bình
Việc đánh giá chất lượng noãn là một yếu tố quan trọng trong quá trình thụ tinh ống nghiệm. Hiện nay, quá trình chọn lọc noãn trưởng thành chỉ đơn giản dựa vào hình thái, chủ yếu dựa vào sự xuất hiện của thể cực thứ nhất (first polar body – PB1). Sự xuất hiện của thể cực thứ nhất thường được coi là dấu hiện cho sự trưởng thành nhân của noãn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây sử dụng kính hiển vi phân cực để đánh giá sự hiện diện của thoi vô sắc cho thấy những noãn đã tống xuất PB1 có thể vẫn chưa trưởng thành.
Thoi vô sắc (meiotic spindle – MS) giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn tất quá trình giảm phân và được kiểm soát nhờ vào sự di chuyển của các nhiễm sắc thể (NST) qua các giai đoạn khác nhau của quá trình giảm phân. Sự xuất hiện MS giai đoạn MII của noãn đánh dấu cho sự trưởng thành hoàn toàn về nhân, đảm bảo khả năng thụ tinh cũng như khả năng phát triển tốt nhất cho phôi sau này. Để kiểm chứng giả thuyết về mối liên hệ của hình thái MS và tỉ lệ thành công của kết quả điều trị thụ tinh ống nghiệm, nghiên cứu của Kilani và cộng sự (2014) đã thực hiện kiểm tra mối tương quan giữa sự hiện diện của MS bình thường và tỷ lệ thai lâm sàng, trẻ sinh sống trên bệnh nhân sẩy thai liên tiếp (RIF). Hình ảnh MS được chụp bằng kính hiển vi phân cực (Oosight) vào thời điểm ICSI và được phân tích sau đó qua các nhóm đặc điểm: MS bình thường với hình thái rõ ràng (hình thái thùng rượu) và MS bất thường với tất cả các loại còn lại. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống ở nhóm bệnh nhân được chuyển ít nhất một phôi từ noãn có MS bình thường cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân được chuyển phôi từ nhóm MS bất thường (tỷ lệ thai lâm sàng: 31% và 7%; tỷ lệ sinh sống: 24% và 4%). Như vậy hình ảnh MS có tiềm năng trong quá trình lựa chọn phôi chuyển ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp.
Dựa trên những hiểu biết về cơ chế phân tử của sự hình thành MS, hệ thống MS được hoàn thiện đúng cấu trúc sẽ có dạng hình trụ với các NST tập trung thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo. Nếu xuất hiện những bất thường trong việc tập hợp NST hoặc các NST không xếp thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo của MS, cấu trúc MS sẽ bị biến đổi. Một số nghiên cứu sử dụng kính hiển vi huỳnh quang và kính hiển vi tiêu điểm cho thấy khi các NST không sắp xếp thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo của MS sẽ làm thay đổi cấu trúc MS. MS là cấu trúc mang tính lưỡng chiết nên có thể quan sát được dưới kính hiển vi phân cực. Sự hiện diện của MS cung cấp thông tin chính xác hơn về giai đoạn phân chia của noãn. Một số kết quả nghiên cứu ghi nhận noãn vẫn chưa trưởng thành (đang ở đầu giai đoạn kỳ cuối I) mặc dù đã tống xuất PB. Ở giai đoạn này, PB và MS lần lượt hình thành trong lần phân chia tế bào, bước này kéo dài khoảng 75 – 90 phút. Sau đó MS biến mất vào cuối giai đoạn kỳ cuối I và xuất hiện trở lại vào giai đoạn gian kỳ của noãn (khoảng 40 – 60 phút). Như vậy, nếu không có sự hiện diện của MS ở những noãn được cho là trưởng thành thông qua sự hiện diện của thể cực thứ nhất thì những noãn này chưa trưởng thành hoàn toàn để sử dụng cho ICSI. Để chứng minh tầm quan trọng của sự xuất hiện MS, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa vị trí của MS so với PB với tỉ lệ phôi hữu dụng, tỉ lệ thai lâm sàng ở những chu kỳ ICSI. Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định phương pháp mới đánh giá sự trưởng thành của noãn và được ứng dụng làm marker dự đoán thời điểm thụ tinh thích hợp. Nghiên cứu này dựa trên hai giả thuyết. Thứ nhất, góc lệch giữa MS và PB có thể được sử dụng như một giá trị dự đoán thời điểm thụ tinh thích hợp trong ICSI. Thứ hai, theo tác giả việc đánh giá MS bằng hệ thống kính hiển vi phân cực không làm ảnh hưởng đến chất lượng noãn, do đó không ảnh hưởng đến kết cục điều trị.
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện trên 214 bệnh nhân điều trị ICSI được chia làm hai nhóm: nhóm 1 gồm những bệnh nhân điều trị ICSI với noãn được đánh giá hình thái MS bằng hệ thống kính phân cực (n=124), nhóm 2 là nhóm điều trị ICSI với noãn không được đánh giá hình thái MS (n=90). Đối với nhóm 1, tác giả chọn góc lệch giữa PB và MS là 30 làm ngưỡng để dự đoán khả năng trưởng thành hoàn toàn của noãn, các bệnh nhân nhóm 1 có noãn với góc lệch >30 sẽ được ICSI sau thời điểm đánh giá hình thái MS tối đa 2 giờ, những noãn không thỏa điều kiện này được xem là chưa trưởng thành hoàn toàn và được khuyến nghị ICSI sau thời điểm đánh giá tối đa 4 giờ. Các kết quả về tỉ lệ phôi hữu dụng, tỉ lệ thai lâm sàng giữa hai nhóm được ghi nhận.
Kết quả cho thấy nhóm 1 có tỷ lệ thai lâm sàng (38% so với 26%, P<0,05) và tỷ lệ phôi hữu dụng (54% so với 38%, P<0,001) cao hơn đáng kể khi so với nhóm đối chứng. Ngoài ra khi so sánh nhóm bệnh nhân >35 tuổi, việc đánh giá hình thái MS trước ICSI giúp cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng hơn đáng kể (34% so với 18% ở nhóm đối chứng).
Như vậy, nghiên cứu này đã cho thấy góc giữa PB và MS có thể được sử dụng như chỉ số dự đoán sự trưởng thành của noãn để lựa chọn thời điểm thụ tinh thích hợp, từ đó giúp cải thiện được tỉ lệ phôi hữu dụng và kết quả lâm sàng ở cả nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Việc đánh giá hình thái MS trước ICSI là một phương pháp đánh giá không xâm lấn và được cho là không gây tác động tiêu cực đến noãn. Vì vậy phương pháp này có tiềm năng trong việc sử dụng để dự đoán tình trạng trưởng thành của noãn trước ICSI.
Nguồn: Tepla, O., Topurko, Z., Masata, J., Jirsová, S., Moosova, M., Fajmonova, E., ... & Kratochvilova, I. (2021). Relative Position of the Meiotic Spindle and Polar Body as a Marker of Oocyte Maturation Improves the Utilization and Pregnancy Rates.
Việc đánh giá chất lượng noãn là một yếu tố quan trọng trong quá trình thụ tinh ống nghiệm. Hiện nay, quá trình chọn lọc noãn trưởng thành chỉ đơn giản dựa vào hình thái, chủ yếu dựa vào sự xuất hiện của thể cực thứ nhất (first polar body – PB1). Sự xuất hiện của thể cực thứ nhất thường được coi là dấu hiện cho sự trưởng thành nhân của noãn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây sử dụng kính hiển vi phân cực để đánh giá sự hiện diện của thoi vô sắc cho thấy những noãn đã tống xuất PB1 có thể vẫn chưa trưởng thành.
Thoi vô sắc (meiotic spindle – MS) giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn tất quá trình giảm phân và được kiểm soát nhờ vào sự di chuyển của các nhiễm sắc thể (NST) qua các giai đoạn khác nhau của quá trình giảm phân. Sự xuất hiện MS giai đoạn MII của noãn đánh dấu cho sự trưởng thành hoàn toàn về nhân, đảm bảo khả năng thụ tinh cũng như khả năng phát triển tốt nhất cho phôi sau này. Để kiểm chứng giả thuyết về mối liên hệ của hình thái MS và tỉ lệ thành công của kết quả điều trị thụ tinh ống nghiệm, nghiên cứu của Kilani và cộng sự (2014) đã thực hiện kiểm tra mối tương quan giữa sự hiện diện của MS bình thường và tỷ lệ thai lâm sàng, trẻ sinh sống trên bệnh nhân sẩy thai liên tiếp (RIF). Hình ảnh MS được chụp bằng kính hiển vi phân cực (Oosight) vào thời điểm ICSI và được phân tích sau đó qua các nhóm đặc điểm: MS bình thường với hình thái rõ ràng (hình thái thùng rượu) và MS bất thường với tất cả các loại còn lại. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống ở nhóm bệnh nhân được chuyển ít nhất một phôi từ noãn có MS bình thường cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân được chuyển phôi từ nhóm MS bất thường (tỷ lệ thai lâm sàng: 31% và 7%; tỷ lệ sinh sống: 24% và 4%). Như vậy hình ảnh MS có tiềm năng trong quá trình lựa chọn phôi chuyển ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp.
Dựa trên những hiểu biết về cơ chế phân tử của sự hình thành MS, hệ thống MS được hoàn thiện đúng cấu trúc sẽ có dạng hình trụ với các NST tập trung thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo. Nếu xuất hiện những bất thường trong việc tập hợp NST hoặc các NST không xếp thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo của MS, cấu trúc MS sẽ bị biến đổi. Một số nghiên cứu sử dụng kính hiển vi huỳnh quang và kính hiển vi tiêu điểm cho thấy khi các NST không sắp xếp thành một hàng trên mặt phẳng xích đạo của MS sẽ làm thay đổi cấu trúc MS. MS là cấu trúc mang tính lưỡng chiết nên có thể quan sát được dưới kính hiển vi phân cực. Sự hiện diện của MS cung cấp thông tin chính xác hơn về giai đoạn phân chia của noãn. Một số kết quả nghiên cứu ghi nhận noãn vẫn chưa trưởng thành (đang ở đầu giai đoạn kỳ cuối I) mặc dù đã tống xuất PB. Ở giai đoạn này, PB và MS lần lượt hình thành trong lần phân chia tế bào, bước này kéo dài khoảng 75 – 90 phút. Sau đó MS biến mất vào cuối giai đoạn kỳ cuối I và xuất hiện trở lại vào giai đoạn gian kỳ của noãn (khoảng 40 – 60 phút). Như vậy, nếu không có sự hiện diện của MS ở những noãn được cho là trưởng thành thông qua sự hiện diện của thể cực thứ nhất thì những noãn này chưa trưởng thành hoàn toàn để sử dụng cho ICSI. Để chứng minh tầm quan trọng của sự xuất hiện MS, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa vị trí của MS so với PB với tỉ lệ phôi hữu dụng, tỉ lệ thai lâm sàng ở những chu kỳ ICSI. Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định phương pháp mới đánh giá sự trưởng thành của noãn và được ứng dụng làm marker dự đoán thời điểm thụ tinh thích hợp. Nghiên cứu này dựa trên hai giả thuyết. Thứ nhất, góc lệch giữa MS và PB có thể được sử dụng như một giá trị dự đoán thời điểm thụ tinh thích hợp trong ICSI. Thứ hai, theo tác giả việc đánh giá MS bằng hệ thống kính hiển vi phân cực không làm ảnh hưởng đến chất lượng noãn, do đó không ảnh hưởng đến kết cục điều trị.
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện trên 214 bệnh nhân điều trị ICSI được chia làm hai nhóm: nhóm 1 gồm những bệnh nhân điều trị ICSI với noãn được đánh giá hình thái MS bằng hệ thống kính phân cực (n=124), nhóm 2 là nhóm điều trị ICSI với noãn không được đánh giá hình thái MS (n=90). Đối với nhóm 1, tác giả chọn góc lệch giữa PB và MS là 30 làm ngưỡng để dự đoán khả năng trưởng thành hoàn toàn của noãn, các bệnh nhân nhóm 1 có noãn với góc lệch >30 sẽ được ICSI sau thời điểm đánh giá hình thái MS tối đa 2 giờ, những noãn không thỏa điều kiện này được xem là chưa trưởng thành hoàn toàn và được khuyến nghị ICSI sau thời điểm đánh giá tối đa 4 giờ. Các kết quả về tỉ lệ phôi hữu dụng, tỉ lệ thai lâm sàng giữa hai nhóm được ghi nhận.
Kết quả cho thấy nhóm 1 có tỷ lệ thai lâm sàng (38% so với 26%, P<0,05) và tỷ lệ phôi hữu dụng (54% so với 38%, P<0,001) cao hơn đáng kể khi so với nhóm đối chứng. Ngoài ra khi so sánh nhóm bệnh nhân >35 tuổi, việc đánh giá hình thái MS trước ICSI giúp cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng hơn đáng kể (34% so với 18% ở nhóm đối chứng).
Như vậy, nghiên cứu này đã cho thấy góc giữa PB và MS có thể được sử dụng như chỉ số dự đoán sự trưởng thành của noãn để lựa chọn thời điểm thụ tinh thích hợp, từ đó giúp cải thiện được tỉ lệ phôi hữu dụng và kết quả lâm sàng ở cả nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Việc đánh giá hình thái MS trước ICSI là một phương pháp đánh giá không xâm lấn và được cho là không gây tác động tiêu cực đến noãn. Vì vậy phương pháp này có tiềm năng trong việc sử dụng để dự đoán tình trạng trưởng thành của noãn trước ICSI.
Nguồn: Tepla, O., Topurko, Z., Masata, J., Jirsová, S., Moosova, M., Fajmonova, E., ... & Kratochvilova, I. (2021). Relative Position of the Meiotic Spindle and Polar Body as a Marker of Oocyte Maturation Improves the Utilization and Pregnancy Rates.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hệ thống CRISPR/CAS9 và tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực vô sinh nam - Ngày đăng: 17-07-2021
Sử dụng công nghệ time ‑ lapse để phát hiện sự hình thành không bào trong phôi ngày 3 và phôi ngày 4 - Ngày đăng: 15-07-2021
Phát triển một phần mềm phân tích tự động động học của phôi người - Ngày đăng: 15-07-2021
Liệu các thông số động học hình thái có thể tiên lượng được phôi nguyên bội cho kết quả sẩy thai hay không ? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các phương pháp bổ trợ trong IVF – bằng chứng khoa học và thực hành hiện tại? - Ngày đăng: 15-07-2021
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trung tâm hỗ trợ sinh sản của các cặp vợ chồng hiếm muộn - Ngày đăng: 13-07-2021
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của carcinosarcomas buồng trứng - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ sinh đôi khi chuyển hai phôi ở phụ nữ hiếm muộn lớn tuổi - Ngày đăng: 13-07-2021
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
Nghiên cứu hồi cứu: mối liên hệ giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong các chu kì chuyển phôi tươi ở các nhóm tuổi bệnh nhân khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA VIRUS VIÊM GAN SIÊU VI B, C LÊN CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG - Ngày đăng: 13-07-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK