Tin tức
on Tuesday 28-09-2021 4:19pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Trữ lạnh giao tử là một kỹ thuật quan trọng trọng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Vào năm 1953, trường hợp em bé đầu tiên ra đời sử dụng mẫu tinh trùng đông lạnh được báo cáo. Kể từ đó, hàng loạt những tiến bộ quan trọng đã được đánh dấu trong lĩnh vực đông lạnh tinh trùng. Đến năm 1986, trường hợp mang thai sử dụng noãn trữ đầu tiên được ghi nhận. Chỉ định trữ lạnh giao tử để bảo tồn khả năng sinh sản cho những bệnh nhân bị ung thư, riêng trữ lạnh noãn là lựa chọn phù hợp cho những phụ nữ có định hướng trì hoãn mang thai, hoặc cho các trường hợp muốn hiến tặng noãn. Tuy nhiên, đến hiện tại, ảnh hưởng của quá trình trữ lạnh lên noãn và tinh trùng vẫn chưa sáng tỏ. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của giao tử đông lạnh (gồm noãn và tinh trùng) đến kết quả lâm sàng khi thực hiện điều trị bằng kĩ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) ở những trường hợp sử dụng noãn hiến.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu (2021), thực hiện trên 122 trường hợp nhận noãn với 152 chu kì điều trị. Dựa trên nguồn gốc của noãn và tinh trùng, bệnh nhân được chia thành 4 nhóm:
- Nhóm FO/FS (n = 19): tạo phôi sử dụng noãn tươi và tinh trùng tươi
- Nhóm FO/CrS (n = 14): tạo phôi sử dụng noãn tươi và tinh trùng đông lạnh
- Nhóm CrO/FS (n = 85): tạo phôi sử dụng noãn đông lạnh và tinh trùng tươi
- Nhóm CrO/CrS (n = 34): tạo phôi sử dụng noãn đông lạnh và tinh trùng đông lạnh
Tuổi người hiến noãn ≤ 35 tuổi. Đối tượng nhận noãn hiến là những bệnh nhân nữ vô sinh có liên quan đến chức năng buồng trứng, lớn tuổi, sắp mãn kinh hoặc đáp ứng buồng trứng kém. Tất cả những trường hợp khác như bất thường tinh trùng nặng, thất bại làm tổ liên tục, phôi có thực hiện chẩn đoán di truyền tiền làm tổ và bất thường karyotype nặng không được nhận vào nghiên cứu.
Noãn sau chọc hút được trữ lạnh hoặc sử dụng để ICSI ngay. Những bất thường trong hình thái noãn như các hạt hiện diện trong bào tương, bào tương sậm màu, không bào, khoang quanh noãn rộng, bất thường màng trong suốt, thể cực phân mảnh được ghi nhận lại.
Trữ lạnh noãn và rã đông
3 giờ sau khi chọc hút, noãn được cho tiếp xúc lần lượt với dung dịch cân bằng, dung dịch thủy tinh hóa để chuẩn bị trữ lạnh trong nitơ lỏng. Khi rã noãn, dụng cụ trữ được nhúng trực tiếp vào môi trường rã trong 1 phút và rửa nhiều lần trong các môi trường nuôi cấy thích hợp. 3 giờ sau rã, noãn được thực hiện ICSI.
Phân tích tinh dịch, trữ lạnh và rã mẫu tinh trùng trữ
Mẫu tinh dịch được thu nhận và phân tích mật độ, hình dạng và độ di động theo hướng dẫn của WHO 2010. Thành phần trong môi trường trữ gồm các chất bảo vệ đông lạnh như dung dịch đệm glycerol 12% hay gentamycin nồng độ 10 µg/mL. Mẫu tinh dịch được bổ sung môi trường trữ và để ở nhiệt độ phòng trong 10 phút. Tiếp theo, ống trữ gồm hỗn hợp tinh dịch và môi trường trữ được đặt 10 phút trong hơi nitơ, sau đó sẽ nhúng vào nitơ lỏng. Khi cần rã, để ống tinh trùng ở nhiệt độ phòng trong 10 phút, sau đó thực hiện ly tâm đẳng tỉ trọng để thu nhận tinh trùng.
Nuôi cấy phôi và đánh giá hình thái
Noãn được kiểm tra thụ tinh sau 16 giờ tính từ lúc ICSI. Thụ tinh được xác nhận khi có hiện diện 2 tiền nhân và thể cực thứ 2. Phôi được cấy trong giọt môi trường với thể tích 50 µL và có phủ dầu.
Đặc điểm của phôi giai đoạn phân chia chất lượng tốt: có 4 phôi bào vào ngày hai, 8 – 10 phôi bào vào ngày ba, tỉ lệ phân mảnh < 15%, phôi bào phân chia đối xứng, không có phôi bào nào đa nhân, bào tương không màu, không xuất hiện các thể vùi, khoang quanh noãn không có hạt và không có bất thường hình thái màng trong suốt.
Những phôi nuôi cấy đến ngày 5 hoặc ngày 6 có hình thái khối tế bào bên trong (inner cell mass – ICM) và lớp tế bào ngoại bì lá nuôi (trophectoderm cell – TE) bình thường được xem là phôi nang có chất lượng tốt.
Chuyển phôi và theo dõi lâm sàng
Mỗi bệnh nhân sẽ được chuyển từ 1 đến 3 phôi ngày 5. Những phôi dư sẽ được trữ lạnh. Hai tuần sau chuyển phôi, những bệnh nhân có thai sinh hóa trước đó sẽ được kiểm tra thai thông qua siêu âm đầu dò. Thai lâm sàng được ghi nhận khi xác định được tim thai.
Kết quả
Các kết quả như tỉ lệ phôi có tốc độ phân chia bình thường, tỉ lệ phôi phát triển thành phôi nang và tỉ lệ làm tổ ở nhóm CrO/CrS thấp hơn đáng kể so với nhóm FO/FS. Số liệu cụ thể như sau:
- Tỉ lệ phôi có tốc độ phân chia bình thường: 55,5% và 76,4% (P = 0,046)
- Tỉ lệ phôi phát triển thành phôi nang: 24% và 53% (P = 0,02)
- Tỉ lệ làm tổ: 14,5% và 36,7% (P = 0,047)
Tỉ lệ thụ tinh, phôi ngày 2 và ngày 3 có chất lượng cao, phôi có tốc độ phân chia bình thường vào ngày 2, phôi nang có chất lượng cao, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai tương đương giữa các nhóm nghiên cứu.
Kết luận
Nghiên cứu này cho kết quả tương tự như những nghiên cứu trước đó: tỉ lệ thụ tinh và chất lượng phôi ở noãn trữ thấp hơn so với noãn tươi. Mặc dù giữa nhóm CrO/CrS và nhóm FO/FS không có khác biệt về tỉ lệ phôi nang có chất lượng cao nhưng tỉ lệ làm tổ ở nhóm CrO/CrS lại thấp hơn. Điều này có thể giải thích rằng: phôi bình thường về mặt hình thái nhưng vẫn có khả năng mang những bất thường bắt nguồn từ những tổn thương trong quá trình đông lạnh. Noãn có khả năng sửa chữa bất thường DNA, tuy nhiên, khả năng này của noãn sẽ bị hạn chế trong trường hợp sử dụng cả noãn trữ lạnh và tinh trùng trữ lạnh để tạo phôi. Như vậy, theo kết quả này, sự phát triển toàn vẹn của phôi và tỉ lệ làm tổ sẽ giảm khi noãn trữ thụ tinh với tinh trùng trữ.
Lược dịch từ: Setti, A.S., Braga, D.P.D.A.F., Iaconelli, A. and Borges, E., 2021. Cryopreservation of both male and female gametes leads to reduced embryo development and implantation potential. Zygote, pp.1-6.
Trữ lạnh giao tử là một kỹ thuật quan trọng trọng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Vào năm 1953, trường hợp em bé đầu tiên ra đời sử dụng mẫu tinh trùng đông lạnh được báo cáo. Kể từ đó, hàng loạt những tiến bộ quan trọng đã được đánh dấu trong lĩnh vực đông lạnh tinh trùng. Đến năm 1986, trường hợp mang thai sử dụng noãn trữ đầu tiên được ghi nhận. Chỉ định trữ lạnh giao tử để bảo tồn khả năng sinh sản cho những bệnh nhân bị ung thư, riêng trữ lạnh noãn là lựa chọn phù hợp cho những phụ nữ có định hướng trì hoãn mang thai, hoặc cho các trường hợp muốn hiến tặng noãn. Tuy nhiên, đến hiện tại, ảnh hưởng của quá trình trữ lạnh lên noãn và tinh trùng vẫn chưa sáng tỏ. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của giao tử đông lạnh (gồm noãn và tinh trùng) đến kết quả lâm sàng khi thực hiện điều trị bằng kĩ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI) ở những trường hợp sử dụng noãn hiến.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu (2021), thực hiện trên 122 trường hợp nhận noãn với 152 chu kì điều trị. Dựa trên nguồn gốc của noãn và tinh trùng, bệnh nhân được chia thành 4 nhóm:
- Nhóm FO/FS (n = 19): tạo phôi sử dụng noãn tươi và tinh trùng tươi
- Nhóm FO/CrS (n = 14): tạo phôi sử dụng noãn tươi và tinh trùng đông lạnh
- Nhóm CrO/FS (n = 85): tạo phôi sử dụng noãn đông lạnh và tinh trùng tươi
- Nhóm CrO/CrS (n = 34): tạo phôi sử dụng noãn đông lạnh và tinh trùng đông lạnh
Tuổi người hiến noãn ≤ 35 tuổi. Đối tượng nhận noãn hiến là những bệnh nhân nữ vô sinh có liên quan đến chức năng buồng trứng, lớn tuổi, sắp mãn kinh hoặc đáp ứng buồng trứng kém. Tất cả những trường hợp khác như bất thường tinh trùng nặng, thất bại làm tổ liên tục, phôi có thực hiện chẩn đoán di truyền tiền làm tổ và bất thường karyotype nặng không được nhận vào nghiên cứu.
Noãn sau chọc hút được trữ lạnh hoặc sử dụng để ICSI ngay. Những bất thường trong hình thái noãn như các hạt hiện diện trong bào tương, bào tương sậm màu, không bào, khoang quanh noãn rộng, bất thường màng trong suốt, thể cực phân mảnh được ghi nhận lại.
Trữ lạnh noãn và rã đông
3 giờ sau khi chọc hút, noãn được cho tiếp xúc lần lượt với dung dịch cân bằng, dung dịch thủy tinh hóa để chuẩn bị trữ lạnh trong nitơ lỏng. Khi rã noãn, dụng cụ trữ được nhúng trực tiếp vào môi trường rã trong 1 phút và rửa nhiều lần trong các môi trường nuôi cấy thích hợp. 3 giờ sau rã, noãn được thực hiện ICSI.
Phân tích tinh dịch, trữ lạnh và rã mẫu tinh trùng trữ
Mẫu tinh dịch được thu nhận và phân tích mật độ, hình dạng và độ di động theo hướng dẫn của WHO 2010. Thành phần trong môi trường trữ gồm các chất bảo vệ đông lạnh như dung dịch đệm glycerol 12% hay gentamycin nồng độ 10 µg/mL. Mẫu tinh dịch được bổ sung môi trường trữ và để ở nhiệt độ phòng trong 10 phút. Tiếp theo, ống trữ gồm hỗn hợp tinh dịch và môi trường trữ được đặt 10 phút trong hơi nitơ, sau đó sẽ nhúng vào nitơ lỏng. Khi cần rã, để ống tinh trùng ở nhiệt độ phòng trong 10 phút, sau đó thực hiện ly tâm đẳng tỉ trọng để thu nhận tinh trùng.
Nuôi cấy phôi và đánh giá hình thái
Noãn được kiểm tra thụ tinh sau 16 giờ tính từ lúc ICSI. Thụ tinh được xác nhận khi có hiện diện 2 tiền nhân và thể cực thứ 2. Phôi được cấy trong giọt môi trường với thể tích 50 µL và có phủ dầu.
Đặc điểm của phôi giai đoạn phân chia chất lượng tốt: có 4 phôi bào vào ngày hai, 8 – 10 phôi bào vào ngày ba, tỉ lệ phân mảnh < 15%, phôi bào phân chia đối xứng, không có phôi bào nào đa nhân, bào tương không màu, không xuất hiện các thể vùi, khoang quanh noãn không có hạt và không có bất thường hình thái màng trong suốt.
Những phôi nuôi cấy đến ngày 5 hoặc ngày 6 có hình thái khối tế bào bên trong (inner cell mass – ICM) và lớp tế bào ngoại bì lá nuôi (trophectoderm cell – TE) bình thường được xem là phôi nang có chất lượng tốt.
Chuyển phôi và theo dõi lâm sàng
Mỗi bệnh nhân sẽ được chuyển từ 1 đến 3 phôi ngày 5. Những phôi dư sẽ được trữ lạnh. Hai tuần sau chuyển phôi, những bệnh nhân có thai sinh hóa trước đó sẽ được kiểm tra thai thông qua siêu âm đầu dò. Thai lâm sàng được ghi nhận khi xác định được tim thai.
Kết quả
Các kết quả như tỉ lệ phôi có tốc độ phân chia bình thường, tỉ lệ phôi phát triển thành phôi nang và tỉ lệ làm tổ ở nhóm CrO/CrS thấp hơn đáng kể so với nhóm FO/FS. Số liệu cụ thể như sau:
- Tỉ lệ phôi có tốc độ phân chia bình thường: 55,5% và 76,4% (P = 0,046)
- Tỉ lệ phôi phát triển thành phôi nang: 24% và 53% (P = 0,02)
- Tỉ lệ làm tổ: 14,5% và 36,7% (P = 0,047)
Tỉ lệ thụ tinh, phôi ngày 2 và ngày 3 có chất lượng cao, phôi có tốc độ phân chia bình thường vào ngày 2, phôi nang có chất lượng cao, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai tương đương giữa các nhóm nghiên cứu.
Kết luận
Nghiên cứu này cho kết quả tương tự như những nghiên cứu trước đó: tỉ lệ thụ tinh và chất lượng phôi ở noãn trữ thấp hơn so với noãn tươi. Mặc dù giữa nhóm CrO/CrS và nhóm FO/FS không có khác biệt về tỉ lệ phôi nang có chất lượng cao nhưng tỉ lệ làm tổ ở nhóm CrO/CrS lại thấp hơn. Điều này có thể giải thích rằng: phôi bình thường về mặt hình thái nhưng vẫn có khả năng mang những bất thường bắt nguồn từ những tổn thương trong quá trình đông lạnh. Noãn có khả năng sửa chữa bất thường DNA, tuy nhiên, khả năng này của noãn sẽ bị hạn chế trong trường hợp sử dụng cả noãn trữ lạnh và tinh trùng trữ lạnh để tạo phôi. Như vậy, theo kết quả này, sự phát triển toàn vẹn của phôi và tỉ lệ làm tổ sẽ giảm khi noãn trữ thụ tinh với tinh trùng trữ.
Lược dịch từ: Setti, A.S., Braga, D.P.D.A.F., Iaconelli, A. and Borges, E., 2021. Cryopreservation of both male and female gametes leads to reduced embryo development and implantation potential. Zygote, pp.1-6.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tiềm năng phát triển của noãn chưa trưởng thành sau chọc hút ở các chu kỳ kích thích buồng trứng - Ngày đăng: 28-09-2021
Chất lượng cuộc sống và kết quả điều trị của những phụ nữ vô sinh có lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 27-09-2021
Viêm gan siêu vi B và kết cục thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 27-09-2021
Nuôi con bằng sữa mẹ trong mùa dịch COVID-19 - Ngày đăng: 27-09-2021
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích kết quả tinh dịch đồ - Ngày đăng: 27-09-2021
Khác biệt thông tin biểu hiện của mirna chứa trong các bóng xuất bào (EXOSOME) có trong huyết tương bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 25-09-2021
iDAScore: mô hình lựa chọn phôi dựa trên trí tuệ nhân tạo và động học hình thái phôi - Ngày đăng: 24-09-2021
Ứng dụng mạng thần kinh tích chập cho sự phân chia phôi giai đoạn sớm trong thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 24-09-2021
So sánh thực hiện kiểm tra chéo thủ công và nhận diện điện tử trong quy trình thao tác tại phòng thí nghiệm ivf: sự tác động lên thời gian và hiệu quả - Ngày đăng: 24-09-2021
Sự biểu hiện của ACE2 và TMPRSS2 – Protein đặc trưng cho sự xâm nhiễm của sars-cov-2, trên noãn, hợp tử và phôi người - Ngày đăng: 24-09-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK