Tin tức
on Monday 27-09-2021 10:45pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNHS. Võ Thị Kim Điệp, IVFAS - Đơn vị Hỗ trợ Sinh sản An Sinh, Bệnh viện An Sinh
Tổng quan
Lạc nội mạc tử cung (Endometriosis) là tình trạng mô đệm và các tuyến nội mạc tử cung xuất hiện ở bất kì vị trí nào bên ngoài khoang tử cung. Đây là một bệnh lý phụ khoa mạn tính, là một trong những nguyên nhân chính gây đau vùng chậu mãn tính và vô sinh. Theo các nghiên cứu trước đây, khoảng 0,5-10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị lạc nội mạc tử cung, trong đó khoảng 1/3 mắc bệnh lạc nội mạc tử cung bị vô sinh. Các triệu chứng của lạc nội mạc tử cung rất đa dạng như đau khi hành kinh, đau vùng chậu mãn tính không theo chu kì, đau khi quan hệ tình dục và vô sinh. Trong đó, vô sinh có liên quan tiêu cực đến sức khỏe, quan hệ tình dục và tâm lý xã hội của bệnh nhân và hỗ trợ sinh sản (ART) là lựa chọn lý tưởng tuy vẫn còn một vài tranh cãi liên quan đến lạc nội mạc tử cung mức độ trung bình đến nặng vì cơ chế của nó vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn, do đó làm tăng thêm khó khăn trong việc chẩn đoán của thực hành lâm sàng.
Ngoài những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người bệnh lạc nội mạc tử cung thì một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng lạc nội mạc tử cung có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai trong ART, tuy nhiên một số nghiên cứu không tìm thấy sự liên quan.
Phương pháp
Nghiên cứu này được tiến hành ở những phụ nữ có chuyển phôi trong giai đoạn từ năm 2012- 2017 tại trung tâm Công nghệ Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đại học Quốc gia Cheng Kung. Nghiên cứu so sánh ảnh hưởng của bệnh lý lạc nội mạc tử cung đến kết quả mang thai và chất lượng cuộc sống của những phụ nữ điều trị IVF. Có 81 bệnh nhân đưa vào nghiên cứu (với 142 chu kỳ chuyển phôi) có sự hiện diện của lạc nội mạc tử cung trong khi điều trị IVF và 605 phụ nữ (với 1063 chu kỳ chuyển phôi) không có bằng chứng về lạc nội mạc tử cung đang điều trị IVF. Trong nghiên cứu này, những người được chọn ở hai nhóm phải đạt tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về việc có hay không có lạc nội mạc tử cung và khía cạnh tâm lý đã bao gồm các yếu tố do chấn thương tâm lý có sẵn trước đó ít nhất 6 tháng. Những người bệnh này được hỗ trợ truyền Atosiban trước chuyển phôi. Kết cục mang thai sau khi điều trị IVF được đo lường ở 3 thời điểm, đó là thai sinh hóa, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
“Chất lượng cuộc sống” (QoL) trong nghiên cứu là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân gặp vấn đề về vô sinh theo phiên bản Đài Loan của FertiQoL. Nó bao gồm hai mô-đun là cốt lõi và các thang điều trị. Mô-đun cốt lõi có 22 mục bao gồm các khía cạnh: tâm trí, cơ thể, lĩnh vực cảm xúc, quan hệ và xã hội; trong khi mô-đun điều trị có 10 mục bao gồm hai khía cạnh của lĩnh vực: điều trị môi trường và khả năng dung nạp. Tất cả các mục phản hồi trong FertiQoL đều theo thang điểm Likert năm điểm. Tổng số FertiQoL, điểm mô-đun, và tên miền được tính toán và xếp hạng trong phạm vi từ 0-100 với điểm số cao hơn cho thấy QoL tốt hơn.
Kết quả
Các yếu tố như AMH (p = 0.029), tiền sử thất bại sau chuyển phôi (p=0,003) và sử dụng Atosiban (p=0,10) có sự khác biệt đáng kể ở người bệnh có hay không có lạc nội mạc tử cung trong điều trị IVF.
Những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung có điểm chất lượng cuộc sống thấp hơn đáng kể so với người bệnh không có lạc nội mạc tử cung như các yếu tố cảm xúc (p=0,039), tâm trí / cơ thể (p= 0,015) và môi trường điều trị (p <.001) điểm miền, cốt lõi (p=0,024) và điểm số mô-đun điều trị (p <0,001) và tổng điểm (p=0,004) của thang FertiQoL (Fertility Quality of Life).
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy những phụ nữ hiếm muộn khi lạc nội mạc tử cung có chất lượng cuộc sống thấp hơn so với những phụ nữ không có lạc nội mạc tử cung, có thể liên quan đến kết quả mang thai sau đó của điều trị IVF. Các kết quả của nghiên cứu này nổi bật tầm quan trọng và sự cần thiết của tư vấn tâm lý cho người hiếm muộn, bệnh nhân đang điều trị IVF, bất kể sự hiện diện của lạc nội mạc tử cung, nhằm tăng cường chất lượng cuộc sống của họ. Đó có thể là một trong những chiến lược tiềm năng để cải thiện kết quả mang thai.
Do đó, việc cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trong quá trình điều trị IVF mang lại hiệu quả để nâng cao tỷ lệ mang thai IVF, đặc biệt là đối với những người bị lạc nội mạc tử cung.
Nguồn: Wu, Meng-Hsing, et al. "Quality of life among infertile women with endometriosis undergoing IVF treatment and their pregnancy outcomes." Journal of Psychosomatic Obstetrics & Gynecology 42.1 (2021): 57-66.
Tổng quan
Lạc nội mạc tử cung (Endometriosis) là tình trạng mô đệm và các tuyến nội mạc tử cung xuất hiện ở bất kì vị trí nào bên ngoài khoang tử cung. Đây là một bệnh lý phụ khoa mạn tính, là một trong những nguyên nhân chính gây đau vùng chậu mãn tính và vô sinh. Theo các nghiên cứu trước đây, khoảng 0,5-10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bị lạc nội mạc tử cung, trong đó khoảng 1/3 mắc bệnh lạc nội mạc tử cung bị vô sinh. Các triệu chứng của lạc nội mạc tử cung rất đa dạng như đau khi hành kinh, đau vùng chậu mãn tính không theo chu kì, đau khi quan hệ tình dục và vô sinh. Trong đó, vô sinh có liên quan tiêu cực đến sức khỏe, quan hệ tình dục và tâm lý xã hội của bệnh nhân và hỗ trợ sinh sản (ART) là lựa chọn lý tưởng tuy vẫn còn một vài tranh cãi liên quan đến lạc nội mạc tử cung mức độ trung bình đến nặng vì cơ chế của nó vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn, do đó làm tăng thêm khó khăn trong việc chẩn đoán của thực hành lâm sàng.
Ngoài những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người bệnh lạc nội mạc tử cung thì một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng lạc nội mạc tử cung có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai trong ART, tuy nhiên một số nghiên cứu không tìm thấy sự liên quan.
Phương pháp
Nghiên cứu này được tiến hành ở những phụ nữ có chuyển phôi trong giai đoạn từ năm 2012- 2017 tại trung tâm Công nghệ Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đại học Quốc gia Cheng Kung. Nghiên cứu so sánh ảnh hưởng của bệnh lý lạc nội mạc tử cung đến kết quả mang thai và chất lượng cuộc sống của những phụ nữ điều trị IVF. Có 81 bệnh nhân đưa vào nghiên cứu (với 142 chu kỳ chuyển phôi) có sự hiện diện của lạc nội mạc tử cung trong khi điều trị IVF và 605 phụ nữ (với 1063 chu kỳ chuyển phôi) không có bằng chứng về lạc nội mạc tử cung đang điều trị IVF. Trong nghiên cứu này, những người được chọn ở hai nhóm phải đạt tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về việc có hay không có lạc nội mạc tử cung và khía cạnh tâm lý đã bao gồm các yếu tố do chấn thương tâm lý có sẵn trước đó ít nhất 6 tháng. Những người bệnh này được hỗ trợ truyền Atosiban trước chuyển phôi. Kết cục mang thai sau khi điều trị IVF được đo lường ở 3 thời điểm, đó là thai sinh hóa, thai diễn tiến và trẻ sinh sống.
“Chất lượng cuộc sống” (QoL) trong nghiên cứu là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân gặp vấn đề về vô sinh theo phiên bản Đài Loan của FertiQoL. Nó bao gồm hai mô-đun là cốt lõi và các thang điều trị. Mô-đun cốt lõi có 22 mục bao gồm các khía cạnh: tâm trí, cơ thể, lĩnh vực cảm xúc, quan hệ và xã hội; trong khi mô-đun điều trị có 10 mục bao gồm hai khía cạnh của lĩnh vực: điều trị môi trường và khả năng dung nạp. Tất cả các mục phản hồi trong FertiQoL đều theo thang điểm Likert năm điểm. Tổng số FertiQoL, điểm mô-đun, và tên miền được tính toán và xếp hạng trong phạm vi từ 0-100 với điểm số cao hơn cho thấy QoL tốt hơn.
Kết quả
Các yếu tố như AMH (p = 0.029), tiền sử thất bại sau chuyển phôi (p=0,003) và sử dụng Atosiban (p=0,10) có sự khác biệt đáng kể ở người bệnh có hay không có lạc nội mạc tử cung trong điều trị IVF.
Những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung có điểm chất lượng cuộc sống thấp hơn đáng kể so với người bệnh không có lạc nội mạc tử cung như các yếu tố cảm xúc (p=0,039), tâm trí / cơ thể (p= 0,015) và môi trường điều trị (p <.001) điểm miền, cốt lõi (p=0,024) và điểm số mô-đun điều trị (p <0,001) và tổng điểm (p=0,004) của thang FertiQoL (Fertility Quality of Life).
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy những phụ nữ hiếm muộn khi lạc nội mạc tử cung có chất lượng cuộc sống thấp hơn so với những phụ nữ không có lạc nội mạc tử cung, có thể liên quan đến kết quả mang thai sau đó của điều trị IVF. Các kết quả của nghiên cứu này nổi bật tầm quan trọng và sự cần thiết của tư vấn tâm lý cho người hiếm muộn, bệnh nhân đang điều trị IVF, bất kể sự hiện diện của lạc nội mạc tử cung, nhằm tăng cường chất lượng cuộc sống của họ. Đó có thể là một trong những chiến lược tiềm năng để cải thiện kết quả mang thai.
Do đó, việc cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trong quá trình điều trị IVF mang lại hiệu quả để nâng cao tỷ lệ mang thai IVF, đặc biệt là đối với những người bị lạc nội mạc tử cung.
Nguồn: Wu, Meng-Hsing, et al. "Quality of life among infertile women with endometriosis undergoing IVF treatment and their pregnancy outcomes." Journal of Psychosomatic Obstetrics & Gynecology 42.1 (2021): 57-66.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Viêm gan siêu vi B và kết cục thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 27-09-2021
Nuôi con bằng sữa mẹ trong mùa dịch COVID-19 - Ngày đăng: 27-09-2021
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích kết quả tinh dịch đồ - Ngày đăng: 27-09-2021
Khác biệt thông tin biểu hiện của mirna chứa trong các bóng xuất bào (EXOSOME) có trong huyết tương bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 25-09-2021
iDAScore: mô hình lựa chọn phôi dựa trên trí tuệ nhân tạo và động học hình thái phôi - Ngày đăng: 24-09-2021
Ứng dụng mạng thần kinh tích chập cho sự phân chia phôi giai đoạn sớm trong thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 24-09-2021
So sánh thực hiện kiểm tra chéo thủ công và nhận diện điện tử trong quy trình thao tác tại phòng thí nghiệm ivf: sự tác động lên thời gian và hiệu quả - Ngày đăng: 24-09-2021
Sự biểu hiện của ACE2 và TMPRSS2 – Protein đặc trưng cho sự xâm nhiễm của sars-cov-2, trên noãn, hợp tử và phôi người - Ngày đăng: 24-09-2021
Ảnh hưởng của stress oxi hóa – khử lên thông các số tinh dịch đồ và chức năng sinh lý bình thường của tinh trùng người - Ngày đăng: 24-09-2021
Chiến lược sàng lọc nhiễm sắc thể không xâm lấn để ưu tiên phôi chuyển trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 21-09-2021
Ảnh hưởng của thời gian trữ đông phôi với các biến chứng thai kỳ và cân nặng lúc sinh - Ngày đăng: 21-09-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK