Tin tức
on Thursday 15-07-2021 4:42pm
Danh mục: Tin quốc tế
NHS Đào Thị Thanh
IVFMD – Bệnh viện Mỹ Đức
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là phương pháp điều trị vô sinh hiệu quả nhất hiện nay. Khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, một số phương pháp bổ trợ (add-on) có thể được sử dụng đi kèm với kỳ vọng có thể làm tăng khả năng thành công của IVF. Một số phương pháp bổ trợ phổ biến gồm sinh thiết phôi tiền làm tổ, châm cứu, massage, yoga, sử dụng thảo dược và các thuốc khác,… Có hay không nên sử dụng các phương pháp bổ trợ trong hỗ trợ sinh sản (HTSS) vẫn là một mối quan tâm của các chuyên gia. Tại Úc, một cuộc khảo sát trên 1500 bệnh nhân điều trị IVF đã phát hiện ra rằng hầu hết bệnh nhân đều phải trả thêm chi phí để sử dụng các phương pháp bổ trợ trong quá trình điều trị hiếm muộn.
Úc là một trong những nước có tỷ lệ thụ tinh trong ống nghiệm cao nhất thế giới và việc điều trị chủ yếu là các cơ sở y tế tư nhân. Một lý do khả thi cho việc sử dụng rộng rãi phương pháp bổ trợ là sự hào phóng của chính phủ khi hỗ trợ một nửa chi phí điều trị hiếm muộn. Mục đích của cuộc khảo sát bệnh nhân này là nhằm hiểu rõ mức độ phổ biến của các phương pháp bổ trợ đang được sử dụng, chi phí của chúng, vai trò của bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân trong việc thúc đẩy ra quyết định sử dụng phương pháp bổ trợ, và quan trọng nhất là tầm quan trọng của bằng chứng khoa học.
Những người tham gia có độ tuổi tối đa dưới 40, trình độ học vấn cao, được thụ tinh trong ống nghiệm và sử dụng phương pháp bổ trợ trong khoảng thời gian 3,5 năm (2017 đến 2020). Tiêu chuẩn loại bao gồm: mang thai hộ, xin cho noãn, trữ lạnh noãn nhưng chưa sử dụng. Họ hoàn thành bảng câu hỏi trực tuyến từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2020. Việc tuyển chọn vào nghiên cứu được thực hiện thông qua quảng cáo trên Facebook. Các quảng cáo cố tình không đề cập đến phương pháp bổ trợ hay ưu điểm của các phương pháp bổ trợ để giảm thiểu sai số do chủ quan.
Có tổng cộng 1590 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy 82% bệnh nhân IVF đều sử dụng một hay nhiều phương pháp bổ trợ và 72% trong số đó phải trả thêm phí. Hơn một nửa (54%) trong số những bệnh nhân này cho biết lần đầu tiên họ nghe về các phương pháp bổ trợ là từ bác sĩ lâm sàng IVF, hầu hết quyết định đều được đưa ra sau khi đã trao đổi với các bác sĩ. Tỷ lệ áp dụng các phương pháp bổ trợ trong HTSS như sau: châm cứu (45%), PGT-A (28%), thảo dược Trung Quốc (26%), heparin và aspirin (đều có tỷ lệ khoảng 24%) là những phương pháp bổ trợ được sử dụng phổ biến nhất.
Hậu quả của các phương pháp bổ trợ không chỉ liên quan đến tài chính mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của các bệnh nhân. Tỷ lệ chung bệnh nhân cảm thấy hối tiếc về quyết định có sử dụng các phương pháp bổ trợ là 66% và con số này ở những bệnh nhân thất bại điều trị lên đến 83%. Ở nhóm bệnh nhân cho rằng sự tư vấn của bác sĩ ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa của mình thì tỷ lệ hối hận cũng tăng lên với 75%.
Một câu hỏi quan trọng được đặt ra là liệu bệnh nhân có nhận thức được những lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng các phương pháp bổ trợ này hay không. Những người tham gia khảo sát trước khi quyết định sử dụng các phương pháp bổ trợ đều cần bằng chứng khoa học về tính an toàn và hiệu quả tăng tỷ lệ sinh sống. Tuy nhiên, những bằng chứng về các phương pháp bổ trợ đến nay vẫn chưa đầy đủ, đồng thời bệnh nhân có thể đã không được giải thích kỹ về ưu và nhược điểm của các phương pháp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lensen S, Hammarberg K, Polyakov A, et al. How common is add-on use and how do patients decide whether to use them? A national survey of IVF patients. Hum Reprod 2021; doi:10.1093/humrep/deab0981
IVFMD – Bệnh viện Mỹ Đức
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là phương pháp điều trị vô sinh hiệu quả nhất hiện nay. Khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, một số phương pháp bổ trợ (add-on) có thể được sử dụng đi kèm với kỳ vọng có thể làm tăng khả năng thành công của IVF. Một số phương pháp bổ trợ phổ biến gồm sinh thiết phôi tiền làm tổ, châm cứu, massage, yoga, sử dụng thảo dược và các thuốc khác,… Có hay không nên sử dụng các phương pháp bổ trợ trong hỗ trợ sinh sản (HTSS) vẫn là một mối quan tâm của các chuyên gia. Tại Úc, một cuộc khảo sát trên 1500 bệnh nhân điều trị IVF đã phát hiện ra rằng hầu hết bệnh nhân đều phải trả thêm chi phí để sử dụng các phương pháp bổ trợ trong quá trình điều trị hiếm muộn.
Úc là một trong những nước có tỷ lệ thụ tinh trong ống nghiệm cao nhất thế giới và việc điều trị chủ yếu là các cơ sở y tế tư nhân. Một lý do khả thi cho việc sử dụng rộng rãi phương pháp bổ trợ là sự hào phóng của chính phủ khi hỗ trợ một nửa chi phí điều trị hiếm muộn. Mục đích của cuộc khảo sát bệnh nhân này là nhằm hiểu rõ mức độ phổ biến của các phương pháp bổ trợ đang được sử dụng, chi phí của chúng, vai trò của bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân trong việc thúc đẩy ra quyết định sử dụng phương pháp bổ trợ, và quan trọng nhất là tầm quan trọng của bằng chứng khoa học.
Những người tham gia có độ tuổi tối đa dưới 40, trình độ học vấn cao, được thụ tinh trong ống nghiệm và sử dụng phương pháp bổ trợ trong khoảng thời gian 3,5 năm (2017 đến 2020). Tiêu chuẩn loại bao gồm: mang thai hộ, xin cho noãn, trữ lạnh noãn nhưng chưa sử dụng. Họ hoàn thành bảng câu hỏi trực tuyến từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2020. Việc tuyển chọn vào nghiên cứu được thực hiện thông qua quảng cáo trên Facebook. Các quảng cáo cố tình không đề cập đến phương pháp bổ trợ hay ưu điểm của các phương pháp bổ trợ để giảm thiểu sai số do chủ quan.
Có tổng cộng 1590 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy 82% bệnh nhân IVF đều sử dụng một hay nhiều phương pháp bổ trợ và 72% trong số đó phải trả thêm phí. Hơn một nửa (54%) trong số những bệnh nhân này cho biết lần đầu tiên họ nghe về các phương pháp bổ trợ là từ bác sĩ lâm sàng IVF, hầu hết quyết định đều được đưa ra sau khi đã trao đổi với các bác sĩ. Tỷ lệ áp dụng các phương pháp bổ trợ trong HTSS như sau: châm cứu (45%), PGT-A (28%), thảo dược Trung Quốc (26%), heparin và aspirin (đều có tỷ lệ khoảng 24%) là những phương pháp bổ trợ được sử dụng phổ biến nhất.
Hậu quả của các phương pháp bổ trợ không chỉ liên quan đến tài chính mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của các bệnh nhân. Tỷ lệ chung bệnh nhân cảm thấy hối tiếc về quyết định có sử dụng các phương pháp bổ trợ là 66% và con số này ở những bệnh nhân thất bại điều trị lên đến 83%. Ở nhóm bệnh nhân cho rằng sự tư vấn của bác sĩ ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa của mình thì tỷ lệ hối hận cũng tăng lên với 75%.
Một câu hỏi quan trọng được đặt ra là liệu bệnh nhân có nhận thức được những lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng các phương pháp bổ trợ này hay không. Những người tham gia khảo sát trước khi quyết định sử dụng các phương pháp bổ trợ đều cần bằng chứng khoa học về tính an toàn và hiệu quả tăng tỷ lệ sinh sống. Tuy nhiên, những bằng chứng về các phương pháp bổ trợ đến nay vẫn chưa đầy đủ, đồng thời bệnh nhân có thể đã không được giải thích kỹ về ưu và nhược điểm của các phương pháp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lensen S, Hammarberg K, Polyakov A, et al. How common is add-on use and how do patients decide whether to use them? A national survey of IVF patients. Hum Reprod 2021; doi:10.1093/humrep/deab0981
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn trung tâm hỗ trợ sinh sản của các cặp vợ chồng hiếm muộn - Ngày đăng: 13-07-2021
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của carcinosarcomas buồng trứng - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ sinh đôi khi chuyển hai phôi ở phụ nữ hiếm muộn lớn tuổi - Ngày đăng: 13-07-2021
Mối liên quan giữa tổng số tinh trùng di động và tỷ lệ thai lâm sàng khi thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 13-07-2021
Bổ sung đạm whey có ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và khả năng sinh sản? - Ngày đăng: 13-07-2021
Nghiên cứu hồi cứu: mối liên hệ giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong các chu kì chuyển phôi tươi ở các nhóm tuổi bệnh nhân khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA VIRUS VIÊM GAN SIÊU VI B, C LÊN CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG - Ngày đăng: 13-07-2021
Tỷ lệ thai lạc chỗ và thai đúng vị trí kết hợp thai lạc chỗ sau chuyển phôi trữ giai đoạn phôi nang và phôi phân chia: Nghiên cứu từ dữ liệu của SART CORS - Ngày đăng: 13-07-2021
Chức năng kháng oxy hóa của HDL dịch nang - Ngày đăng: 13-07-2021
Khả năng sửa chữa phân mảnh DNA tinh trùng của noãn: ảnh hưởng của tuổi mẹ trên kết quả ICSI - Ngày đăng: 12-07-2021
Thuốc chủng ngừa COVID-19 có an toàn trong thai kỳ hay không? - Ngày đăng: 12-07-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK