Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 12-07-2021 12:52pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận

Khoảng 15% các cặp đôi trong độ tuổi sinh sản vô sinh hiếm muộn, trong đó, nguyên nhân gây vô sinh hàng đầu được báo cáo là do yếu tố nam giới. Chẩn đoán nguyên nhân vô sinh ở nam giới theo hướng dẫn của WHO dựa trên các thông số tinh dịch đồ như thể tích tinh dịch, mật độ tinh trùng, tỉ lệ di động, hình dạng tinh trùng… đã được sử dụng trong rất nhiều năm qua. Mặc dù có nhiều nghiên cứu cho thấy có mối tương quan giữa chất lượng tinh dịch và kết quả điều trị, tuy nhiên, các thông số tinh dịch đồ không thể được sử dụng như yếu tố tiên lượng sự thành công của một chu kỳ điều trị. Các bằng chứng hiện tại cho rằng, xét nghiệm tinh dịch đồ không thể đánh giá được những yếu tố có thể là nguyên nhân gây vô sinh khác ở cấp độ bào quan hay DNA của tinh trùng.

Các kỹ thuật mới đã được đưa ra nhằm phân tích thêm về chức năng tinh trùng. Phân mảnh DNA tinh trùng (Sperm DNA fragmentation- SDF) được định nghĩa là sự đứt gãy mạch đôi hoặc mạch đơn DNA tinh trùng, được cho là một trong những nguyên nhân gây vô sinh nam, tác động tiêu cực lên kết quả sinh sản cũng như làm tăng nguy cơ mắc bệnh di truyền ở thế hệ sau. Hai phân tích tổng hợp gần đây cho thấy phân mảnh DNA tinh trùng có ảnh hưởng xấu lên kết quả thai lâm sàng (Simon và cs, 2017) và tăng nguy cơ sẩy thai liên tiếp (McQueen và cs, 2019). Việc sửa chữa sai hỏng của DNA tinh trùng phụ thuộc rất nhiều vào noãn ở giai đoạn sau thụ tinh. Khả năng sửa chữa phân mảnh DNA tinh trùng của noãn phụ thuộc vào mức độ phân mảnh DNA của tinh trùng,  chất lượng bộ gen và chất lượng tế bào chất của noãn. Trên thực tế, đã có nghiên cứu báo cáo rằng không có sự khác biệt về kết quả lâm sàng giữa các nhóm SDF khi xin noãn, qua đó cho thấy chất lượng noãn có thể tác động đến phân mảnh DNA tinh trùng lên kết quả thai. Tuy nhiên vẫn cần phải làm sáng tỏ rằng tác động của phân mảnh DNA tinh trùng có phụ thuộc vào tuổi noãn hay không. Do đó, Amanda Souza Setti và cộng sự (2021) đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của phân mảnh DNA tinh trùng lên kết quả lâm sàng trong chu kỳ hỗ trợ sinh sản ở những bệnh nhân ở các nhóm tuổi khác nhau.

Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện từ tháng 06/2017 đến tháng 12/2019. Bệnh nhân tham gia nghiên cứu được chia thành 3 nhóm dựa trên độ tuổi: ≤ 36 tuổi (n = 285), 37-40 tuổi (n = 147) và >40 tuổi (n = 108). Kỹ thuật SCD (sử dụng bộ kit Halosperm) được sử dụng để đánh giá phân mảnh DNA tinh trùng. Theo mỗi nhóm tuổi, độ phân mảnh DNA tinh trùng được chia thành 2 nhóm: chỉ số phân mảnh thấp (SDF < 30%) và chỉ số phân mảnh cao (SDF ≥ 30%). Ngưỡng tham khảo SCD được sử dụng dựa trên kết quả từ những nghiên cứu trước đó. Tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai và tỉ lệ sẩy thai được so sánh giữa các nhóm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh nhân trẻ tuổi (≤ 36 tuổi) và những bệnh nhân có độ tuổi từ 37- 40, không có bất kỳ sự khác biệt nào về kết quả phôi học và kết quả lâm sàng ở những bệnh nhân có SDF < 30% hoặc SDF ≥ 30%. Ở nhóm bệnh nhân > 40 tuổi, tỉ lệ phôi tốt ngày 3 (54,4% với 33,1%; P= 0,005), tỉ lệ hình thành phôi nang (49,6% với 30,2%; P = 0,035), tỉ lệ phôi nang tốt (70,6% với 44,6%; P = 0,014) ở nhóm SDF ≥30% cao hơn đáng kể so với nhóm SDF ≥ 30%. Ngoài ra, nghiên cứu còn quan sát thấy rằng tỉ lệ thai (20,0% với 7,7%; P = 0,040) và tỉ lệ làm tổ (19,7% với 11,9%; P < 0,001) cũng thấp hơn ở nhóm SDF ≥ 30%. Ngoài ra, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm > 40 tuổi có SDF ≥ 30% chiếm tới 100%, cao hơn đáng kể so với nhóm SDF < 30% (12,5%; P < 0,001).

Như vậy, nghiên cứu này cho thấy noãn ở những bệnh nhân lớn tuổi khi được thụ tinh với tinh trùng mang phân mảnh DNA cao sẽ phát triển thành phôi có chất lượng kém, từ đó dẫn đến tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai thấp, tăng nguy cơ sẩy thai ở các chu kỳ ICSI.

Nguồn: Amanda Souza Setti và cs (2021). Oocyte ability to repair sperm DNA fragmentation: the impact of maternal age on intracytoplasmic sperm injection outcomes. Fertility and Sterility. 10.1016/j.fertnstert.2020.10.045

Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối quan hệ giữa stress và vô sinh - Ngày đăng: 02-07-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK