Tin tức
on Saturday 26-06-2021 8:42am
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Minh Phượng, Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sự tập hợp của lưới nội chất trơn (SERa hoặc SER+) có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc dẫn tới kết cục lâm sàng xấu như sẩy thai hay các biến chứng chu sinh (Alpha scientists in reproductive medicin, 2017; Otsuki J và cs, 2004; Ebner và cs, 2008). Thông qua một số nghiên cứu thấy rằng SER+ lại có tần suất xuất hiện khá phổ biến trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, noãn SER+ xuất hiện trong 10% chu kỳ, khoảng 19-34% trong tổng số noãn thu nhận trong một chu kỳ (Shaw-Jackson và cs, 2014). Nghiên cứu phôi học đã chứng minh SER điều chỉnh sự phát triển sớm của phôi thông qua việc tích lũy năng lượng, có vai trò quan trọng trong việc lưu trữ và giải phóng canxi và làm gia tăng tỷ lệ trưởng thành của noãn, tuy nhiên sự tập hợp này lại làm giảm tỷ lệ thụ tinh, thậm chí một số nghiên cứu đã báo cáo xuất hiện sự sắp xếp lại nhiễm sắc thể cùng với đột biến mất đoạn 2q31 (Sfontouris và cs, 2018).
Hai đánh giá hệ thống được thực hiện vào năm 2014 và 2019 đã cho thấy rằng phôi SER+ vẫn có thể sử dụng trong các chu kỳ không có đủ phôi chất lượng tốt, các phôi này vẫn có thể phát triển thành trẻ sơ sinh khỏe mạnh (Shaw-Jackson và cs, 2014; Ferreux và cs, 2019). Tuy nhiên, vẫn có khoảng 25% trung tâm hỗ trợ sinh sản loại bỏ noãn SER+ (Van Beirs và cs, 2015). Do vậy, Zhang và cộng sự (2021) đã thực hiện phân tích tổng hợp này với mục đích nghiên cứu ảnh hưởng của SER+ đối với trẻ sinh sống, trọng lượng sơ sinh và số lượng noãn trưởng thành (MII) trong mỗi chu kỳ.
Nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm dữ liệu trên PubMed, ScienceDirect, Cochrane, Embase, Ovid và Scopus, tìm thấy tổng cộng 1500 nghiên cứu có liên quan từ năm 1978 đến năm 2020 và tiến hành phân tích tổng hợp để nghiên cứu tác động của SER+ đối với trẻ sinh sống, cân nặng khi sinh và số lượng noãn trưởng thành (MII) trong mỗi chu kỳ.
Một số kết quả thu nhận được:
- Có tổng cộng 11 nghiên cứu đủ điều kiện để nhận vào nghiên cứu (nghiên cứu xa nhất đã được xuất bản cách đây chưa đầy 12 năm).
- Các chu kỳ kích thích buồng trứng tạo nhiều noãn có tương quan thuận với sự xuất hiện của SER + (OR = 1,28, 95% CI = 0,41–2,15; p = 0,004).
- Hợp tử từ SER+ không ảnh hưởng đến lúc sinh hoặc trọng lượng cơ thể trẻ sơ sinh. Điều này có thể do các phôi tốt nhất được chọn ở mỗi bước trong quá trình phát triển và các noãn kém chất lượng bị loại bỏ.
- SER+ có tương quan thuận với tỷ lệ trưởng thành của noãn và sự không đồng nhất được quan sát thấy trong một phân tích tổng hợp trước đây có thể là do tuổi mẹ.
Làm thế nào SER+ xuất hiện vẫn chưa được rõ ràng, tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể bắt nguồn từ các bất thường di truyền. SER+ có thể xảy ra lặp đi lặp lại trong nhiều chu kỳ ICSI trên cùng một bệnh nhân. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng SER+ có liên quan đến việc tăng hormone AMH và nồng độ estrdiol (E2) trong máu hay thời gian kích thích buồng trứng dài dẫn tới buồng trứng bị kích thích quá mức.
Nghiên cứu đồng ý với sự đồng thuận gần đây của Alpha / ESHRE (2017) rằng việc chuyển phôi SER+ nên được xem xét cẩn thận. Có thể sử dụng phôi được tạo ra từ các chu kỳ SER+ nhưng chỉ nên được chuyển nếu không có phôi phù hợp khác trong một số chu kỳ.
Nguồn: Zhang, H., Hu, W., Zhong, Y., & Guo, Z. (2021). Meta-analysis of the effects of smooth endoplasmic reticulum aggregation on birth outcome. BMC Pregnancy and Childbirth, 21(1), 1-8.
Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sự tập hợp của lưới nội chất trơn (SERa hoặc SER+) có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh hoặc dẫn tới kết cục lâm sàng xấu như sẩy thai hay các biến chứng chu sinh (Alpha scientists in reproductive medicin, 2017; Otsuki J và cs, 2004; Ebner và cs, 2008). Thông qua một số nghiên cứu thấy rằng SER+ lại có tần suất xuất hiện khá phổ biến trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, noãn SER+ xuất hiện trong 10% chu kỳ, khoảng 19-34% trong tổng số noãn thu nhận trong một chu kỳ (Shaw-Jackson và cs, 2014). Nghiên cứu phôi học đã chứng minh SER điều chỉnh sự phát triển sớm của phôi thông qua việc tích lũy năng lượng, có vai trò quan trọng trong việc lưu trữ và giải phóng canxi và làm gia tăng tỷ lệ trưởng thành của noãn, tuy nhiên sự tập hợp này lại làm giảm tỷ lệ thụ tinh, thậm chí một số nghiên cứu đã báo cáo xuất hiện sự sắp xếp lại nhiễm sắc thể cùng với đột biến mất đoạn 2q31 (Sfontouris và cs, 2018).
Hai đánh giá hệ thống được thực hiện vào năm 2014 và 2019 đã cho thấy rằng phôi SER+ vẫn có thể sử dụng trong các chu kỳ không có đủ phôi chất lượng tốt, các phôi này vẫn có thể phát triển thành trẻ sơ sinh khỏe mạnh (Shaw-Jackson và cs, 2014; Ferreux và cs, 2019). Tuy nhiên, vẫn có khoảng 25% trung tâm hỗ trợ sinh sản loại bỏ noãn SER+ (Van Beirs và cs, 2015). Do vậy, Zhang và cộng sự (2021) đã thực hiện phân tích tổng hợp này với mục đích nghiên cứu ảnh hưởng của SER+ đối với trẻ sinh sống, trọng lượng sơ sinh và số lượng noãn trưởng thành (MII) trong mỗi chu kỳ.
Nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm dữ liệu trên PubMed, ScienceDirect, Cochrane, Embase, Ovid và Scopus, tìm thấy tổng cộng 1500 nghiên cứu có liên quan từ năm 1978 đến năm 2020 và tiến hành phân tích tổng hợp để nghiên cứu tác động của SER+ đối với trẻ sinh sống, cân nặng khi sinh và số lượng noãn trưởng thành (MII) trong mỗi chu kỳ.
Một số kết quả thu nhận được:
- Có tổng cộng 11 nghiên cứu đủ điều kiện để nhận vào nghiên cứu (nghiên cứu xa nhất đã được xuất bản cách đây chưa đầy 12 năm).
- Các chu kỳ kích thích buồng trứng tạo nhiều noãn có tương quan thuận với sự xuất hiện của SER + (OR = 1,28, 95% CI = 0,41–2,15; p = 0,004).
- Hợp tử từ SER+ không ảnh hưởng đến lúc sinh hoặc trọng lượng cơ thể trẻ sơ sinh. Điều này có thể do các phôi tốt nhất được chọn ở mỗi bước trong quá trình phát triển và các noãn kém chất lượng bị loại bỏ.
- SER+ có tương quan thuận với tỷ lệ trưởng thành của noãn và sự không đồng nhất được quan sát thấy trong một phân tích tổng hợp trước đây có thể là do tuổi mẹ.
Làm thế nào SER+ xuất hiện vẫn chưa được rõ ràng, tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể bắt nguồn từ các bất thường di truyền. SER+ có thể xảy ra lặp đi lặp lại trong nhiều chu kỳ ICSI trên cùng một bệnh nhân. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng SER+ có liên quan đến việc tăng hormone AMH và nồng độ estrdiol (E2) trong máu hay thời gian kích thích buồng trứng dài dẫn tới buồng trứng bị kích thích quá mức.
Nghiên cứu đồng ý với sự đồng thuận gần đây của Alpha / ESHRE (2017) rằng việc chuyển phôi SER+ nên được xem xét cẩn thận. Có thể sử dụng phôi được tạo ra từ các chu kỳ SER+ nhưng chỉ nên được chuyển nếu không có phôi phù hợp khác trong một số chu kỳ.
Nguồn: Zhang, H., Hu, W., Zhong, Y., & Guo, Z. (2021). Meta-analysis of the effects of smooth endoplasmic reticulum aggregation on birth outcome. BMC Pregnancy and Childbirth, 21(1), 1-8.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sơ lược về phôi khảm và kết quả chuyển phôi khảm trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 24-06-2021
Sự hài lòng và gắn bó của bệnh nhân với trung tâm điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 24-06-2021
Chu kỳ FET dựa trên chu kỳ phóng noãn có thể đạt được tỷ lệ thai cao hơn trong dân số chung và ở phụ nữ không phóng noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Hiệu quả của việc phân tách phôi IVF tiền làm tổ trong ART - Ngày đăng: 22-06-2021
Chuyển phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa ngày 5 so với ngày 6 trong chu kỳ xin noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Ảnh hưởng của chất lượng phôi ngày 3 và ngày 5/6 đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ chuyển đơn phôi rã đông sau thuỷ tinh hoá - Ngày đăng: 22-06-2021
Thai lâm sàng sau khi loại bỏ phân mảnh phôi trước khi chuyển phôi tươi giai đoạn phôi phân chia. - Ngày đăng: 20-06-2021
Đo mức độ phân mảnh DNA tinh trùng trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-06-2021
Tiếp xúc với ánh sáng phát ra từ các thiết bị điện tử vào ban đêm có liên quan đến sự suy giảm chất lượng tinh trùng và chất lượng giấc ngủ - Ngày đăng: 18-06-2021
Tác động của thời gian từ lúc chọc hút noãn đến khi ICSI lên sự phát triển của phôi và kết quả điều trị: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 18-06-2021
Lấy mẫu tinh dịch tại nhà không ảnh hưởng đến kết quả điều trị IVF/ ICSI - Ngày đăng: 18-06-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK