Tin tức
on Tuesday 08-06-2021 2:00pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Đối với những bệnh nhân có thai lâm sàng bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI), một số dấu hiệu trong thai kỳ có thể ảnh hưởng xấu đến việc mang thai và gây cho bệnh nhân nhiều căng thẳng. Một trong số đó là máu tụ dưới màng đệm (subchorionic hematoma - SCH), đã được tìm thấy trong 4 đến 48% các trường hợp mang thai nói chung và đã được báo cáo là xuất hiện thường xuyên hơn ở các trường hợp mang đơn thai IVF so với các trường hợp mang đơn thai không qua IVF. Ngoài ra, các nghiên cứu đã cho thấy rằng nồng độ estradiol tăng cao do quá trình kích thích buồng trứng có kiểm soát (controlled ovarian hyperstimulation - COH) trong thụ tinh trong ống nghiệm có thể là nguyên nhân dẫn đến dễ hình thành SCH hơn trong tử cung. Sự hiện diện và các triệu chứng đi kèm của SCH có khả năng gây ra kết cục bất lợi cho thai kỳ ở nhiều mức độ khác nhau. Các kết cục bất lợi được báo cáo liên quan đến SCH trong thai kỳ không thụ tinh trong ống nghiệm bao gồm nguy cơ sẩy thai, nhau bong non, ối vỡ non trên thai non tháng và giới hạn tăng trưởng thai (FGR). Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu gần đây trên 1097 trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm cho thấy rằng, mặc dù SCH có liên quan đến cân nặng sơ sinh thấp hơn ở đơn thai, tỷ lệ sẩy thai không tăng ở bệnh nhân IVF/ICSI. Hơn nữa, các tác giả kết luận rằng SCH có thể liên quan đến chuyển phôi tươi. Bên cạnh đó, mặc dù cơ chế chính xác mà SCH hình thành là chưa rõ ràng, SCH có thể là kết quả của sự tách rời một phần của màng đệm khỏi màng rụng. Hơn nữa, người ta cho rằng sự hình thành SCH có liên quan đến các sự kiện như vỡ mạch máu trong quá trình xâm lấn của nhung mao vào nội mạc tử cung và có thể dẫn đến hình thành diện nhau bám bất thường. Do đó, Brady T. West và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định xem liệu có yếu tố lâm sàng và/hoặc phôi học nhất định nào liên quan độc lập với sự gia tăng tần suất SCH trong số các thai kỳ IVF hay không và nếu có thì cơ chế hình thành SCH trong thai kỳ IVF khác biệt thế nào với thai kỳ tự nhiên.
Nghiên cứu hồi cứu với dữ liệu từ 210 ca mang thai lâm sàng khi thực hiện IVF- chuyển phôi tươi với noãn tự thân tại một trung tâm duy nhất từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2016. Những trường hợp này đã được thực hiện kích thích buồng trứng có kiểm soát (COH), các quy trình điều trị được cá thể hóa dựa trên tuổi bệnh nhân và nồng độ AMH. Tất cả các bệnh nhân đều được dùng aspirin liều thấp hàng ngày như một loại thuốc bổ trợ cho phác đồ COH. Sau đó, bệnh nhân được tiêm hCG để khởi động trưởng thành noãn. Bệnh nhân được chọc hút noãn sau khi tiêm hCG 35–36 giờ. Noãn sau đó sẽ được IVF hoặc ICSI và chuyển phôi tươi được thực hiện vào ngày thứ 3 hoặc ngày thứ 5, dựa trên chất lượng phôi và tuân theo hướng dẫn của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ/ Hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản (American Society for Reproductive Medicine/Society for Assisted Reproductive Technology - ASRM / SART) về số lượng phôi được chuyển. Những phôi nang chất lượng tốt còn lại sẽ được đông lạnh vào ngày thứ 5 hoặc ngày thứ 6. Sau đó, bệnh nhân được xét nghiệm nồng độ ß-hCG máu để xác nhận thụ thai thành công. Nếu kết quả dương tính, bệnh nhân được siêu âm kiểm tra túi thai ở tuổi thai 6-7 tuần. Sau đó, mỗi 2 tuần bệnh nhân được siêu âm qua ngả âm đạo thường quy để theo dõi tim thai cho đến khi thai được 10-11 tuần, nếu thai kỳ tiếp tục tiến triển. Các biến số lâm sàng và phôi học được phân tích bao gồm phẫu thuật tử cung trước đó so với không phẫu thuật tử cung, nồng độ cao nhất của estradiol và progesterone, chuyển phôi ngày 3 (n = 92) so với ngày 5 (n = 118) và hỗ trợ thoát màng hay không hỗ trợ thoát màng.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ lưỡng biến đáng kể giữa phân loại TE và SCH, trong đó các trường hợp có TE loại “A” ít hình thành SCH hơn đáng kể so với các trường hợp có phân loại “B” hoặc “C” (41,82% thai kỳ có TE loại B hoặc C có SCH, so với chỉ 20,97% thai kỳ có TE loại A có SCH, p = 0,015). Sự khác biệt đáng kể này vẫn còn sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố khác trong mô hình phân tích hồi quy đa biến. Ngoài ra, có bằng chứng yếu về mối liên quan lưỡng biến giữa SCH và nồng độ progesterone cuối cùng (nồng độ progesterone đỉnh vào ngày khởi động trưởng thành noãn) (p = 0,043). Bên cạnh đó, không có sự khác biệt về tỷ lệ sẩy thai tự nhiên giữa thai IVF có SCH và không SCH (18,5% và 15,2%; p = 0,69).
Nghiên cứu cho thấy mặc dù SCH không có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ sẩy thai tự nhiên, đặc biệt ở các trường hợp mang thai được điều trị hỗ trợ sinh sản, nhưng triệu chứng phổ biến của xuất huyết 3 tháng đầu liên quan đến SCH là một nguyên nhân gây lo lắng cho bệnh nhân và bác sĩ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy rằng phôi có TE được phân loại kém có thể là một yếu tố tiềm ẩn liên quan đến sự hiện diện của SCH trong các thai kỳ đạt được thông qua IVF. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy mối liên quan giữa phân loại TE và sự hiện diện của SCH trong thai kỳ sau thụ tinh trong ống nghiệm. Do đó, cần có các nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai với chuyển đơn phôi sẽ hữu ích trong việc xác nhận thêm các phát hiện của nghiên cứu này, với ứng dụng lâm sàng tiềm năng là lựa chọn phôi nang với phân loại TE loại A (nếu có) nhằm cố gắng giảm thiểu tỷ lệ SCH và các triệu chứng gây lo lắng cho bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo: Brady T. West, Parviz K. Kavoussi, Kate C. Odenwald và cộng sự. Factors associated with subchorionic hematoma formation in pregnancies achieved via assisted reproductive technologies. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 2020.
Đối với những bệnh nhân có thai lâm sàng bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI), một số dấu hiệu trong thai kỳ có thể ảnh hưởng xấu đến việc mang thai và gây cho bệnh nhân nhiều căng thẳng. Một trong số đó là máu tụ dưới màng đệm (subchorionic hematoma - SCH), đã được tìm thấy trong 4 đến 48% các trường hợp mang thai nói chung và đã được báo cáo là xuất hiện thường xuyên hơn ở các trường hợp mang đơn thai IVF so với các trường hợp mang đơn thai không qua IVF. Ngoài ra, các nghiên cứu đã cho thấy rằng nồng độ estradiol tăng cao do quá trình kích thích buồng trứng có kiểm soát (controlled ovarian hyperstimulation - COH) trong thụ tinh trong ống nghiệm có thể là nguyên nhân dẫn đến dễ hình thành SCH hơn trong tử cung. Sự hiện diện và các triệu chứng đi kèm của SCH có khả năng gây ra kết cục bất lợi cho thai kỳ ở nhiều mức độ khác nhau. Các kết cục bất lợi được báo cáo liên quan đến SCH trong thai kỳ không thụ tinh trong ống nghiệm bao gồm nguy cơ sẩy thai, nhau bong non, ối vỡ non trên thai non tháng và giới hạn tăng trưởng thai (FGR). Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu gần đây trên 1097 trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm cho thấy rằng, mặc dù SCH có liên quan đến cân nặng sơ sinh thấp hơn ở đơn thai, tỷ lệ sẩy thai không tăng ở bệnh nhân IVF/ICSI. Hơn nữa, các tác giả kết luận rằng SCH có thể liên quan đến chuyển phôi tươi. Bên cạnh đó, mặc dù cơ chế chính xác mà SCH hình thành là chưa rõ ràng, SCH có thể là kết quả của sự tách rời một phần của màng đệm khỏi màng rụng. Hơn nữa, người ta cho rằng sự hình thành SCH có liên quan đến các sự kiện như vỡ mạch máu trong quá trình xâm lấn của nhung mao vào nội mạc tử cung và có thể dẫn đến hình thành diện nhau bám bất thường. Do đó, Brady T. West và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định xem liệu có yếu tố lâm sàng và/hoặc phôi học nhất định nào liên quan độc lập với sự gia tăng tần suất SCH trong số các thai kỳ IVF hay không và nếu có thì cơ chế hình thành SCH trong thai kỳ IVF khác biệt thế nào với thai kỳ tự nhiên.
Nghiên cứu hồi cứu với dữ liệu từ 210 ca mang thai lâm sàng khi thực hiện IVF- chuyển phôi tươi với noãn tự thân tại một trung tâm duy nhất từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 12 năm 2016. Những trường hợp này đã được thực hiện kích thích buồng trứng có kiểm soát (COH), các quy trình điều trị được cá thể hóa dựa trên tuổi bệnh nhân và nồng độ AMH. Tất cả các bệnh nhân đều được dùng aspirin liều thấp hàng ngày như một loại thuốc bổ trợ cho phác đồ COH. Sau đó, bệnh nhân được tiêm hCG để khởi động trưởng thành noãn. Bệnh nhân được chọc hút noãn sau khi tiêm hCG 35–36 giờ. Noãn sau đó sẽ được IVF hoặc ICSI và chuyển phôi tươi được thực hiện vào ngày thứ 3 hoặc ngày thứ 5, dựa trên chất lượng phôi và tuân theo hướng dẫn của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ/ Hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản (American Society for Reproductive Medicine/Society for Assisted Reproductive Technology - ASRM / SART) về số lượng phôi được chuyển. Những phôi nang chất lượng tốt còn lại sẽ được đông lạnh vào ngày thứ 5 hoặc ngày thứ 6. Sau đó, bệnh nhân được xét nghiệm nồng độ ß-hCG máu để xác nhận thụ thai thành công. Nếu kết quả dương tính, bệnh nhân được siêu âm kiểm tra túi thai ở tuổi thai 6-7 tuần. Sau đó, mỗi 2 tuần bệnh nhân được siêu âm qua ngả âm đạo thường quy để theo dõi tim thai cho đến khi thai được 10-11 tuần, nếu thai kỳ tiếp tục tiến triển. Các biến số lâm sàng và phôi học được phân tích bao gồm phẫu thuật tử cung trước đó so với không phẫu thuật tử cung, nồng độ cao nhất của estradiol và progesterone, chuyển phôi ngày 3 (n = 92) so với ngày 5 (n = 118) và hỗ trợ thoát màng hay không hỗ trợ thoát màng.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ lưỡng biến đáng kể giữa phân loại TE và SCH, trong đó các trường hợp có TE loại “A” ít hình thành SCH hơn đáng kể so với các trường hợp có phân loại “B” hoặc “C” (41,82% thai kỳ có TE loại B hoặc C có SCH, so với chỉ 20,97% thai kỳ có TE loại A có SCH, p = 0,015). Sự khác biệt đáng kể này vẫn còn sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố khác trong mô hình phân tích hồi quy đa biến. Ngoài ra, có bằng chứng yếu về mối liên quan lưỡng biến giữa SCH và nồng độ progesterone cuối cùng (nồng độ progesterone đỉnh vào ngày khởi động trưởng thành noãn) (p = 0,043). Bên cạnh đó, không có sự khác biệt về tỷ lệ sẩy thai tự nhiên giữa thai IVF có SCH và không SCH (18,5% và 15,2%; p = 0,69).
Nghiên cứu cho thấy mặc dù SCH không có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ sẩy thai tự nhiên, đặc biệt ở các trường hợp mang thai được điều trị hỗ trợ sinh sản, nhưng triệu chứng phổ biến của xuất huyết 3 tháng đầu liên quan đến SCH là một nguyên nhân gây lo lắng cho bệnh nhân và bác sĩ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy rằng phôi có TE được phân loại kém có thể là một yếu tố tiềm ẩn liên quan đến sự hiện diện của SCH trong các thai kỳ đạt được thông qua IVF. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy mối liên quan giữa phân loại TE và sự hiện diện của SCH trong thai kỳ sau thụ tinh trong ống nghiệm. Do đó, cần có các nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai với chuyển đơn phôi sẽ hữu ích trong việc xác nhận thêm các phát hiện của nghiên cứu này, với ứng dụng lâm sàng tiềm năng là lựa chọn phôi nang với phân loại TE loại A (nếu có) nhằm cố gắng giảm thiểu tỷ lệ SCH và các triệu chứng gây lo lắng cho bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo: Brady T. West, Parviz K. Kavoussi, Kate C. Odenwald và cộng sự. Factors associated with subchorionic hematoma formation in pregnancies achieved via assisted reproductive technologies. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 2020.
Từ khóa: Các yếu tố liên quan đến sự hình thành máu tụ dưới màng đệm trong thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tổng số tinh trùng di động sau lọc rửa và tỷ lệ thai trong IUI: ngưỡng thấp đến mức nào để vẫn có thai? - Ngày đăng: 04-06-2021
Lựa chọn noãn không xâm lấn để chuyển đơn phôi ngày 3 giúp cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân ICSI - Ngày đăng: 02-06-2021
Động học hình thái phôi nang đông lạnh sau rã đông được quan sát bằng cách sử dụng Time-lapse phản ánh số lượng tế bào TE - Ngày đăng: 02-06-2021
AMH không thể dự đoán chất lượng noãn ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 01-06-2021
Quá trình nuôi cấy in vitro dài ngày tế bào cumulus người phản ánh sự biệt hóa của các gen chịu trách nhiệm về sự già hóa và chết theo chương trình - một nghiên cứu về các marker phân tử mới - Ngày đăng: 01-06-2021
Chất lượng tinh dịch của bệnh nhân sau khi phục hồi từ COVID-19 - Ngày đăng: 01-06-2021
Một đột biến đồng hợp tử trong gen TBPL2 được tìm thấy ở những phụ nữ bị khiếm khuyết trong quá trình trưởng thành noãn và vô sinh - Ngày đăng: 31-05-2021
Tăng khả năng dự đoán thu nhận tinh trùng ở những bệnh nhân vô tinh không do tắc (NOA) khi thực hiện micro-TESE bằng quang phổ cộng hưởng từ tinh hoàn - Ngày đăng: 31-05-2021
Các phương pháp sinh thiết lớp tế bào lá nuôi khác nhau và nguy cơ khảm của phôi ở các trường hợp PGT-A - Ngày đăng: 27-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 1) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 2) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 3) - Ngày đăng: 21-05-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK