Tin tức
on Wednesday 02-06-2021 6:45pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Kỹ thuật ICSI ra đời cho phép những trường hợp vô sinh không thể thực hiện IVF cổ điển có thể có con của chính họ. Bên cạnh đó, hệ thống nuôi cấy phôi ngày càng được cải thiện giúp nuôi cấy phôi dài ngày hơn từ đó gia tăng số chu kỳ chuyển đơn phôi ngày 5. Mặc dù các kỹ thuật trong IVF ngày càng phát triển nhưng bệnh nhân vẫn phải thực hiện nhiều hơn một chu kỳ điều trị để có thể có em bé khoẻ mạnh mang về. Trong những năm gần đây, chuyển đơn phôi trở thành xu hướng phổ biến nhằm giảm nguy cơ đa thai và những hậu quả mà đa thai mang lại cho mẹ và bé. Tuy nhiên, số lượng chu kỳ chuyển nhiều hơn một phôi vẫn chiếm tỉ lệ cao tại các trung tâm IVF ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện nay, có nhiều phương pháp được sử dụng nhằm lựa chọn phôi có tiềm năng phát triển tốt nhất để chuyển cho bệnh nhân, tuy nhiên tỉ lệ trẻ sinh sống trong toàn bộ dân số thực hiện IVF ở mọi độ tuổi chỉ dao động trong khoảng 20%. Do đó, nhiều nhóm tác giả đã và đang tập trung nghiên cứu cũng như phát triển những phương pháp không xâm lấn để lựa chọn phôi chuyển tiềm năng và tăng tỉ lệ thành công trong điều trị IVF/ICSI. Gần đây, những nghiên cứu về biểu hiện gen trên tế bào cumulus của noãn thu hút được nhiều sự chú ý. Vài nghiên cứu sử dụng sự biểu hiện của một số gen trên tế bào hạt như là dấu ấn sinh học trong việc tiên lượng tiềm năng phát triển của phôi. Trong nghiên cứu này, Inge Van Vaerenbergh và cộng sự (2021) thực hiện phân tích hồ sơ biểu hiện gen của 3 gen trên tế bào hạt để xác định xem liệu việc này có cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ sinh sống và thời gian mang thai khi chuyển đơn phôi ngày 3 so với những bệnh nhân chỉ lựa chọn phôi dựa trên hình thái hay không.
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 10/2013 đến tháng 04/2019 trên tổng số 633 bệnh nhân thực hiện chuyển đơn phôi tươi ngày 3. Nghiên cứu đánh giá sự biểu hiện của 3 gen EFNB2, SASH1, và CAMK1D trên tế bào hạt của noãn, trong đó sự biểu hiện của EFNB2 và SASH1 tương quan thuận và sự biểu hiện của CAMK1D tương quan nghịch với thai lâm sàng. Dựa trên mức độ biểu hiện của 3 gen này phôi sẽ được tính điểm. Phôi ngày 3 đủ tiêu chuẩn khi xếp loại hình thái và có điểm biểu hiện gen cao nhất sẽ được lựa chọn chuyển cho bệnh nhân.
Đặc điểm nền của bệnh nhân ở nhóm nghiên cứu và nhóm chứng không có sự khác biệt ngoài tổng liều thuốc sử dụng để kích thích buồng trứng và số lượng phôi ngày 3 hữu dụng. Tỉ lệ thai lâm sàng (CPR) ở nhóm nghiên cứu cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (61,1% với 29,4%; p<0,0001). Tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) cũng cao hơn ở nhóm nghiên cứu (49,6% với 26,7%, p< 0,0001). Đánh giá trên các phân nhóm dựa vào số lượng phôi hữu dụng và tuổi của bệnh nhân cho thấy trong hai phân nhóm có 2 và >4 phôi hữu dụng có CPR lần lượt là 66% và 67%. Trong khi đó nhóm có 3-4 phôi hữu dụng, CPR và LBR giảm xuống còn 52% và 43%, tuy nhiên khác biệt không đáng kể. CPR gần như giống nhau ở hai phân nhóm <35 tuổi và 35-39 tuổi (60% với 62%; p=0,9) trong khi LBR cao hơn ở nhóm <35 tuổi (55% với 42%; p= 0,1) mặc dù sự khác biệt này không đáng kể. Đánh giá về thời gian từ khi điều trị đến khi mang thai, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ở nhóm nghiên cứu có khoảng thời gian này ngắn hơn đáng kể so với nhóm chứng.
Như vậy, nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng hữu ích trong thực hành IVF. Đánh giá hình thái phôi kết hợp phân tích biểu hiện của 3 gen EFNB2, SASH1, và CAMK1D trên tế bào hạt của noãn trong lựa chọn phôi ngày 3 để chuyển giúp cải thiện kết quả điều trị cũng như rút ngắn thời gian điều trị của bệnh nhân.
Nguồn: Inge Van Vaerenbergh và cs (2021), Improved clinical outcomes after non-invasive oocyte selection and Day 3 eSET in ICSI patients. Reproductive Biology and Endocrinology. 10.1186/s12958-021-00704-5
Kỹ thuật ICSI ra đời cho phép những trường hợp vô sinh không thể thực hiện IVF cổ điển có thể có con của chính họ. Bên cạnh đó, hệ thống nuôi cấy phôi ngày càng được cải thiện giúp nuôi cấy phôi dài ngày hơn từ đó gia tăng số chu kỳ chuyển đơn phôi ngày 5. Mặc dù các kỹ thuật trong IVF ngày càng phát triển nhưng bệnh nhân vẫn phải thực hiện nhiều hơn một chu kỳ điều trị để có thể có em bé khoẻ mạnh mang về. Trong những năm gần đây, chuyển đơn phôi trở thành xu hướng phổ biến nhằm giảm nguy cơ đa thai và những hậu quả mà đa thai mang lại cho mẹ và bé. Tuy nhiên, số lượng chu kỳ chuyển nhiều hơn một phôi vẫn chiếm tỉ lệ cao tại các trung tâm IVF ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện nay, có nhiều phương pháp được sử dụng nhằm lựa chọn phôi có tiềm năng phát triển tốt nhất để chuyển cho bệnh nhân, tuy nhiên tỉ lệ trẻ sinh sống trong toàn bộ dân số thực hiện IVF ở mọi độ tuổi chỉ dao động trong khoảng 20%. Do đó, nhiều nhóm tác giả đã và đang tập trung nghiên cứu cũng như phát triển những phương pháp không xâm lấn để lựa chọn phôi chuyển tiềm năng và tăng tỉ lệ thành công trong điều trị IVF/ICSI. Gần đây, những nghiên cứu về biểu hiện gen trên tế bào cumulus của noãn thu hút được nhiều sự chú ý. Vài nghiên cứu sử dụng sự biểu hiện của một số gen trên tế bào hạt như là dấu ấn sinh học trong việc tiên lượng tiềm năng phát triển của phôi. Trong nghiên cứu này, Inge Van Vaerenbergh và cộng sự (2021) thực hiện phân tích hồ sơ biểu hiện gen của 3 gen trên tế bào hạt để xác định xem liệu việc này có cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ sinh sống và thời gian mang thai khi chuyển đơn phôi ngày 3 so với những bệnh nhân chỉ lựa chọn phôi dựa trên hình thái hay không.
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 10/2013 đến tháng 04/2019 trên tổng số 633 bệnh nhân thực hiện chuyển đơn phôi tươi ngày 3. Nghiên cứu đánh giá sự biểu hiện của 3 gen EFNB2, SASH1, và CAMK1D trên tế bào hạt của noãn, trong đó sự biểu hiện của EFNB2 và SASH1 tương quan thuận và sự biểu hiện của CAMK1D tương quan nghịch với thai lâm sàng. Dựa trên mức độ biểu hiện của 3 gen này phôi sẽ được tính điểm. Phôi ngày 3 đủ tiêu chuẩn khi xếp loại hình thái và có điểm biểu hiện gen cao nhất sẽ được lựa chọn chuyển cho bệnh nhân.
Đặc điểm nền của bệnh nhân ở nhóm nghiên cứu và nhóm chứng không có sự khác biệt ngoài tổng liều thuốc sử dụng để kích thích buồng trứng và số lượng phôi ngày 3 hữu dụng. Tỉ lệ thai lâm sàng (CPR) ở nhóm nghiên cứu cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (61,1% với 29,4%; p<0,0001). Tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) cũng cao hơn ở nhóm nghiên cứu (49,6% với 26,7%, p< 0,0001). Đánh giá trên các phân nhóm dựa vào số lượng phôi hữu dụng và tuổi của bệnh nhân cho thấy trong hai phân nhóm có 2 và >4 phôi hữu dụng có CPR lần lượt là 66% và 67%. Trong khi đó nhóm có 3-4 phôi hữu dụng, CPR và LBR giảm xuống còn 52% và 43%, tuy nhiên khác biệt không đáng kể. CPR gần như giống nhau ở hai phân nhóm <35 tuổi và 35-39 tuổi (60% với 62%; p=0,9) trong khi LBR cao hơn ở nhóm <35 tuổi (55% với 42%; p= 0,1) mặc dù sự khác biệt này không đáng kể. Đánh giá về thời gian từ khi điều trị đến khi mang thai, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ở nhóm nghiên cứu có khoảng thời gian này ngắn hơn đáng kể so với nhóm chứng.
Như vậy, nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng hữu ích trong thực hành IVF. Đánh giá hình thái phôi kết hợp phân tích biểu hiện của 3 gen EFNB2, SASH1, và CAMK1D trên tế bào hạt của noãn trong lựa chọn phôi ngày 3 để chuyển giúp cải thiện kết quả điều trị cũng như rút ngắn thời gian điều trị của bệnh nhân.
Nguồn: Inge Van Vaerenbergh và cs (2021), Improved clinical outcomes after non-invasive oocyte selection and Day 3 eSET in ICSI patients. Reproductive Biology and Endocrinology. 10.1186/s12958-021-00704-5
Các tin khác cùng chuyên mục:
Động học hình thái phôi nang đông lạnh sau rã đông được quan sát bằng cách sử dụng Time-lapse phản ánh số lượng tế bào TE - Ngày đăng: 02-06-2021
AMH không thể dự đoán chất lượng noãn ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 01-06-2021
Quá trình nuôi cấy in vitro dài ngày tế bào cumulus người phản ánh sự biệt hóa của các gen chịu trách nhiệm về sự già hóa và chết theo chương trình - một nghiên cứu về các marker phân tử mới - Ngày đăng: 01-06-2021
Chất lượng tinh dịch của bệnh nhân sau khi phục hồi từ COVID-19 - Ngày đăng: 01-06-2021
Một đột biến đồng hợp tử trong gen TBPL2 được tìm thấy ở những phụ nữ bị khiếm khuyết trong quá trình trưởng thành noãn và vô sinh - Ngày đăng: 31-05-2021
Tăng khả năng dự đoán thu nhận tinh trùng ở những bệnh nhân vô tinh không do tắc (NOA) khi thực hiện micro-TESE bằng quang phổ cộng hưởng từ tinh hoàn - Ngày đăng: 31-05-2021
Các phương pháp sinh thiết lớp tế bào lá nuôi khác nhau và nguy cơ khảm của phôi ở các trường hợp PGT-A - Ngày đăng: 27-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 1) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 2) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 3) - Ngày đăng: 21-05-2021
Sẩy thai liên tiếp: nên tiếp cận sau hai hay ba lần sẩy thai? Một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 21-05-2021
Thiền định và chánh niệm giúp giảm căng thẳng ở bệnh nhân sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 20-05-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK