Tin tức
on Friday 04-06-2021 8:40pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hoàng Thảo, BS. Dương Đình Thái
Khoa HMVS, Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương
Báo cáo tỷ lệ thành công hàng tháng của các chu kỳ IUI theo chu kỳ tự nhiên hoặc có kích thích nang noãn cho các cặp vợ chồng hiếm muộn có thể là một kinh nghiệm cho bệnh nhân để tránh nguy cơ thất vọng. Tùy thuộc vào nghiên cứu tham khảo, tỷ lệ thành công hàng tháng thường dao động từ 10% đến 20%. Ngay cả trong nhóm có tiên lượng tốt nhất – người vợ không có tiền sử vô sinh với chồng có khả năng sinh sản bình thường – thì tỷ lệ thụ thai là khoảng 15% ở mỗi lần rụng trứng. Điều đó cũng đặt ra câu hỏi: bạn cần thực hiện IUI bao nhiêu lần trước khi chuyển sang IVF/ICSI, khi tuổi tác và khả năng sinh sản có mối liên hệ phức tạp như vậy? Các cặp vợ chồng thực hiện IUI được thông báo về rủi ro thấp hơn và chi phí thấp hơn so với kích thích buồng trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF / ICSI) nhưng đổi lại là tỷ lệ sinh sống thấp hơn trên mỗi chu kỳ. Mặc dù chẩn đoán vô sinh rất hữu ích để giúp quyết định xem IUI có cải thiện cơ hội sinh sản của bệnh nhân hay không, tuổi của phụ nữ thường được sử dụng để quyết định xem có nên tiến hành IUI hay không và làm bao nhiêu chu kỳ trước khi điều trị IVF / ICSI. Tỷ lệ thành công trên mỗi chu kỳ IUI giảm tuyến tính theo độ tuổi phụ nữ, với tỷ lệ mang thai lâm sàng trong khoảng từ 5% đến 8% ở phụ nữ từ 41 đến 42 tuổi. Trong khi đó, dữ liệu sơ bộ năm 2018 của Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi chu kỳ đối với phụ nữ từ 41 đến 42 tuổi là 9,1%. Các thông số tinh dịch đồ là một biến số khác mà một mình hoặc kết hợp có thể dự đoán khả năng mang thai trong một chu kỳ IUI. Muthigi và cộng sự đã báo cáo mối liên hệ giữa tổng số lượng tinh trùng di động sau lọc rửa (TMSC) và mang thai trong các chu kỳ kích thích rụng trứng và bơm tinh trùng vào buồng tử cung (OI / IUI). Trong nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu từ một phòng khám sinh sản lớn, tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ IUI được báo cáo với dữ liệu hoàn chỉnh từ 62.758 chu kỳ ở 26.995 bệnh nhân đủ điều kiện để phân tích tỷ lệ mang thai được phân tầng bởi TMSC bằng cách sử dụng mô hình phương trình ước tính tổng quát để tính cho những bệnh nhân có nhiều hơn một chu kỳ. Các tác giả quan sát thấy rằng tỷ lệ thai lâm sàng cao nhất khi TMSC ≥ 9 triệu và tỷ lệ thai lâm sàng giảm tuyến tính khi TMSC giảm. Tỷ lệ thai lâm sàng mỗi chu kỳ xấp xỉ 16% khi TMSC ≥ 9 triệu và giảm xuống còn xấp xỉ 4% khi TMSC dưới 0,25 triệu. Các biến số có liên quan đáng kể đến việc gia tăng tỷ lệ thai lâm sàng trên chu kỳ bao gồm tuổi vợ thấp, chỉ số khối cơ thể thấp và không phải chu kỳ IUI đầu tiên; tỷ lệ này là 15,5% cho chu kỳ đầu tiên, 15,9% cho chu kỳ thứ hai (P <0,001) và 16,5% cho chu kỳ thứ ba (P <0,001). Các kết quả này cho thấy rằng TMSC ≥ 9 triệu có liên quan đến cơ hội mang thai lâm sàng cao nhất trong một chu kỳ OI / IUI. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác báo cáo tỷ lệ mang thai giảm tuyến tính với giảm TMSC, như trong phân tích thứ cấp của thử nghiệm lâm sàng Đánh giá các trường hợp đa thai sau kích thích buồng trứng.
Mặc dù mục tiêu của các nghiên cứu trước đây về chủ đề này là xác định TMSC sau lọc rửa dưới ngưỡng nào thì bệnh nhân nên tiến hành trực tiếp IVF / ICSI, ngưỡng này có thể được sử dụng để tư vấn cho bệnh nhân về tỷ lệ thai lâm sàng dự đoán trong mỗi chu kỳ IUI. Dữ liệu cũng cho thấy tỷ lệ thành công không giảm qua sáu chu kỳ IUI. Một thách thức khi kết hợp TMSC sau lọc rửa vào tư vấn bệnh nhân là mẫu chuẩn bị tinh trùng không tương đồng với mẫu phân tích tinh dịch đồ và do đó TMSC sau lọc rửa chỉ được biết vào ngày IUI. Thật không may, mối liên quan rõ ràng chưa được xác định giữa TMSC trước lọc rửa và kết cục mang thai. Sự khác biệt giữa TMSC trước và sau lọc rửa dẫn đến câu hỏi: liệu có nên thực hiện, đánh giá TMSC sau lọc rửa như một phần của đánh giá vô sinh nam ban đầu hay không? Hơn nữa, ngay cả khi TMSC sau rửa là dưới 0,25 triệu vẫn có thai lâm sàng 4,2% trên chu kỳ, do đó việc bổ sung chuẩn bị tinh trùng vào phân tích tinh dịch thường quy vẫn không có khả năng thay đổi xử trí lâm sàng ban đầu. Thay vào đó, TMSC sau lọc rửa hữu ích nhất để hướng dẫn việc ra quyết định về số chu kỳ IUI nên thực hiện. Giải pháp điều trị ở nam giới có TMSC sau rửa thấp là gộp nhiều mẫu xuất tinh liên tiếp. Việc này có thể làm tăng tổng số tinh trùng di động lên 144% ở mẫu có số lượng tinh trùng bình thường và 329% ở mẫu ít tinh trùng. Tuy nhiên, nam giới có TMSC thấp không thể khắc phục được bằng cách gộp các lần xuất tinh để tăng TMSC cho mẫu IUI do có bất thường về chức năng tinh trùng. Do đó, chiến lược này cần cân nhắc và vẫn là lựa chọn điều trị hữu ích trong từng trường hợp cụ thể.
Tóm lại, Muthigi đã giúp làm rõ mối liên quan giữa TMSC sau lọc rửa và tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ IUI. Cụ thể, họ phát hiện ra rằng có một ngưỡng TMSC mà dưới ngưỡng này tỷ lệ mang thai sẽ giảm một cách tuyến tính. Không có giá trị TMSC nào tuyệt đối là không có khả năng mang thai và do đó ngay cả các cặp đôi có TMSC thấp nghiêm trọng cũng có thể làm IUI, đặc biệt là người vợ trẻ tuổi. Những dữ liệu này sẽ được sử dụng trong tương lai, ngoài các biến số quan trọng khác, chẳng hạn như tuổi vợ và được chẩn đoán vô sinh, khi đưa ra quyết định với bệnh nhân và tạo hy vọng về cơ hội thành công được dự đoán trên mỗi chu kỳ. Các nghiên cứu trong tương lai nên đánh giá các can thiệp ít rủi ro, chi phí thấp có thể làm tăng tỷ lệ mang thai cho người vợ của nam giới có TMSC thấp để tư vấn cho bệnh nhân trước khi tiến hành điều trị IVF / ICSI.
Nguồn: Phillip A. Romanski, Hey-Joo Kang (2021). Postwash total motile sperm count and intrauterine insemination pregnancy rate: how low can you go? Fertility and Sterility, volume 115, issue 6, P1424-1425, june 01, 2021
Khoa HMVS, Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương
Báo cáo tỷ lệ thành công hàng tháng của các chu kỳ IUI theo chu kỳ tự nhiên hoặc có kích thích nang noãn cho các cặp vợ chồng hiếm muộn có thể là một kinh nghiệm cho bệnh nhân để tránh nguy cơ thất vọng. Tùy thuộc vào nghiên cứu tham khảo, tỷ lệ thành công hàng tháng thường dao động từ 10% đến 20%. Ngay cả trong nhóm có tiên lượng tốt nhất – người vợ không có tiền sử vô sinh với chồng có khả năng sinh sản bình thường – thì tỷ lệ thụ thai là khoảng 15% ở mỗi lần rụng trứng. Điều đó cũng đặt ra câu hỏi: bạn cần thực hiện IUI bao nhiêu lần trước khi chuyển sang IVF/ICSI, khi tuổi tác và khả năng sinh sản có mối liên hệ phức tạp như vậy? Các cặp vợ chồng thực hiện IUI được thông báo về rủi ro thấp hơn và chi phí thấp hơn so với kích thích buồng trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF / ICSI) nhưng đổi lại là tỷ lệ sinh sống thấp hơn trên mỗi chu kỳ. Mặc dù chẩn đoán vô sinh rất hữu ích để giúp quyết định xem IUI có cải thiện cơ hội sinh sản của bệnh nhân hay không, tuổi của phụ nữ thường được sử dụng để quyết định xem có nên tiến hành IUI hay không và làm bao nhiêu chu kỳ trước khi điều trị IVF / ICSI. Tỷ lệ thành công trên mỗi chu kỳ IUI giảm tuyến tính theo độ tuổi phụ nữ, với tỷ lệ mang thai lâm sàng trong khoảng từ 5% đến 8% ở phụ nữ từ 41 đến 42 tuổi. Trong khi đó, dữ liệu sơ bộ năm 2018 của Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi chu kỳ đối với phụ nữ từ 41 đến 42 tuổi là 9,1%. Các thông số tinh dịch đồ là một biến số khác mà một mình hoặc kết hợp có thể dự đoán khả năng mang thai trong một chu kỳ IUI. Muthigi và cộng sự đã báo cáo mối liên hệ giữa tổng số lượng tinh trùng di động sau lọc rửa (TMSC) và mang thai trong các chu kỳ kích thích rụng trứng và bơm tinh trùng vào buồng tử cung (OI / IUI). Trong nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu từ một phòng khám sinh sản lớn, tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ IUI được báo cáo với dữ liệu hoàn chỉnh từ 62.758 chu kỳ ở 26.995 bệnh nhân đủ điều kiện để phân tích tỷ lệ mang thai được phân tầng bởi TMSC bằng cách sử dụng mô hình phương trình ước tính tổng quát để tính cho những bệnh nhân có nhiều hơn một chu kỳ. Các tác giả quan sát thấy rằng tỷ lệ thai lâm sàng cao nhất khi TMSC ≥ 9 triệu và tỷ lệ thai lâm sàng giảm tuyến tính khi TMSC giảm. Tỷ lệ thai lâm sàng mỗi chu kỳ xấp xỉ 16% khi TMSC ≥ 9 triệu và giảm xuống còn xấp xỉ 4% khi TMSC dưới 0,25 triệu. Các biến số có liên quan đáng kể đến việc gia tăng tỷ lệ thai lâm sàng trên chu kỳ bao gồm tuổi vợ thấp, chỉ số khối cơ thể thấp và không phải chu kỳ IUI đầu tiên; tỷ lệ này là 15,5% cho chu kỳ đầu tiên, 15,9% cho chu kỳ thứ hai (P <0,001) và 16,5% cho chu kỳ thứ ba (P <0,001). Các kết quả này cho thấy rằng TMSC ≥ 9 triệu có liên quan đến cơ hội mang thai lâm sàng cao nhất trong một chu kỳ OI / IUI. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác báo cáo tỷ lệ mang thai giảm tuyến tính với giảm TMSC, như trong phân tích thứ cấp của thử nghiệm lâm sàng Đánh giá các trường hợp đa thai sau kích thích buồng trứng.
Mặc dù mục tiêu của các nghiên cứu trước đây về chủ đề này là xác định TMSC sau lọc rửa dưới ngưỡng nào thì bệnh nhân nên tiến hành trực tiếp IVF / ICSI, ngưỡng này có thể được sử dụng để tư vấn cho bệnh nhân về tỷ lệ thai lâm sàng dự đoán trong mỗi chu kỳ IUI. Dữ liệu cũng cho thấy tỷ lệ thành công không giảm qua sáu chu kỳ IUI. Một thách thức khi kết hợp TMSC sau lọc rửa vào tư vấn bệnh nhân là mẫu chuẩn bị tinh trùng không tương đồng với mẫu phân tích tinh dịch đồ và do đó TMSC sau lọc rửa chỉ được biết vào ngày IUI. Thật không may, mối liên quan rõ ràng chưa được xác định giữa TMSC trước lọc rửa và kết cục mang thai. Sự khác biệt giữa TMSC trước và sau lọc rửa dẫn đến câu hỏi: liệu có nên thực hiện, đánh giá TMSC sau lọc rửa như một phần của đánh giá vô sinh nam ban đầu hay không? Hơn nữa, ngay cả khi TMSC sau rửa là dưới 0,25 triệu vẫn có thai lâm sàng 4,2% trên chu kỳ, do đó việc bổ sung chuẩn bị tinh trùng vào phân tích tinh dịch thường quy vẫn không có khả năng thay đổi xử trí lâm sàng ban đầu. Thay vào đó, TMSC sau lọc rửa hữu ích nhất để hướng dẫn việc ra quyết định về số chu kỳ IUI nên thực hiện. Giải pháp điều trị ở nam giới có TMSC sau rửa thấp là gộp nhiều mẫu xuất tinh liên tiếp. Việc này có thể làm tăng tổng số tinh trùng di động lên 144% ở mẫu có số lượng tinh trùng bình thường và 329% ở mẫu ít tinh trùng. Tuy nhiên, nam giới có TMSC thấp không thể khắc phục được bằng cách gộp các lần xuất tinh để tăng TMSC cho mẫu IUI do có bất thường về chức năng tinh trùng. Do đó, chiến lược này cần cân nhắc và vẫn là lựa chọn điều trị hữu ích trong từng trường hợp cụ thể.
Tóm lại, Muthigi đã giúp làm rõ mối liên quan giữa TMSC sau lọc rửa và tỷ lệ thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ IUI. Cụ thể, họ phát hiện ra rằng có một ngưỡng TMSC mà dưới ngưỡng này tỷ lệ mang thai sẽ giảm một cách tuyến tính. Không có giá trị TMSC nào tuyệt đối là không có khả năng mang thai và do đó ngay cả các cặp đôi có TMSC thấp nghiêm trọng cũng có thể làm IUI, đặc biệt là người vợ trẻ tuổi. Những dữ liệu này sẽ được sử dụng trong tương lai, ngoài các biến số quan trọng khác, chẳng hạn như tuổi vợ và được chẩn đoán vô sinh, khi đưa ra quyết định với bệnh nhân và tạo hy vọng về cơ hội thành công được dự đoán trên mỗi chu kỳ. Các nghiên cứu trong tương lai nên đánh giá các can thiệp ít rủi ro, chi phí thấp có thể làm tăng tỷ lệ mang thai cho người vợ của nam giới có TMSC thấp để tư vấn cho bệnh nhân trước khi tiến hành điều trị IVF / ICSI.
Nguồn: Phillip A. Romanski, Hey-Joo Kang (2021). Postwash total motile sperm count and intrauterine insemination pregnancy rate: how low can you go? Fertility and Sterility, volume 115, issue 6, P1424-1425, june 01, 2021
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lựa chọn noãn không xâm lấn để chuyển đơn phôi ngày 3 giúp cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân ICSI - Ngày đăng: 02-06-2021
Động học hình thái phôi nang đông lạnh sau rã đông được quan sát bằng cách sử dụng Time-lapse phản ánh số lượng tế bào TE - Ngày đăng: 02-06-2021
AMH không thể dự đoán chất lượng noãn ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 01-06-2021
Quá trình nuôi cấy in vitro dài ngày tế bào cumulus người phản ánh sự biệt hóa của các gen chịu trách nhiệm về sự già hóa và chết theo chương trình - một nghiên cứu về các marker phân tử mới - Ngày đăng: 01-06-2021
Chất lượng tinh dịch của bệnh nhân sau khi phục hồi từ COVID-19 - Ngày đăng: 01-06-2021
Một đột biến đồng hợp tử trong gen TBPL2 được tìm thấy ở những phụ nữ bị khiếm khuyết trong quá trình trưởng thành noãn và vô sinh - Ngày đăng: 31-05-2021
Tăng khả năng dự đoán thu nhận tinh trùng ở những bệnh nhân vô tinh không do tắc (NOA) khi thực hiện micro-TESE bằng quang phổ cộng hưởng từ tinh hoàn - Ngày đăng: 31-05-2021
Các phương pháp sinh thiết lớp tế bào lá nuôi khác nhau và nguy cơ khảm của phôi ở các trường hợp PGT-A - Ngày đăng: 27-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 1) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 2) - Ngày đăng: 21-05-2021
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị vô sinh nam theo AUA/ASRM 2020 (Phần 3) - Ngày đăng: 21-05-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK