Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 28-04-2021 11:44pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH: Lê Ngọc Bảo Tâm- IVFMD Tân Bình


  1. Đặt vấn đề
Quá trình thụ tinh bình thường diễn ra với sự xuất hiện của hai tiền nhân (2PN) khoảng 16h-18h sau ICSI. Phôi phát triển từ hợp tử 3PN được ghi nhận là một bất thường với tỉ lệ xuất hiện trong cIVF (5%-8,1%) và trong ICSI (4%-6,5%). Những phôi phát triển từ hợp tử 3PN thường được loại bỏ vì chúng mang bất thường NST hoặc có thể phát triển thành các thể tam bội, lệch bội hoặc thể khảm. Tuy nhiên, vẫn có các báo cáo cho thấy hợp tử 3PN vẫn có khả năng phát triển được đến giai đoạn phôi nang (10,75%-62,5%) và trong số những phôi nang này có mang bộ NST bình thường sau khi được đánh giá sàng lọc di truyền tiền làm tổ. Có hai trường hợp ghi nhận được chuyển phôi 3PN đã sinh được em bé phát triển khoẻ mạnh. Từ đó có thể thấy rằng việc đánh giá sàng lọc di truyển tiền làm tổ các phôi nang phát triển từ hợp tử 3PN có thể giúp chọn lọc ra các phôi có tiềm năng phát triển. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã kết hợp giữa việc đánh giá sàng lọc di truyển tiền làm tổ và quan sát đặc điểm hình thái phôi 3PN để kiểm tra mối tương quan giữa hình thái và độ bội của phôi 3PN, từ đó giúp cung cấp thêm thông tin cho việc nên giữ lại hay bỏ đi các phôi 3PN này, đặc biệt trong những trường hợp không có phôi từ hợp tử 2PN.

  1. Phương pháp
Nghiên cứu tiến hành thu thập các hợp tử 3PN từ các chu kỳ điều trị bằng kỹ thuật ICSI. Quá trình chọc hút noãn diễn ra sau khoảng 36h tiêm hCG cho bệnh nhân và tiến hành kỹ thuật ICSI. Việc đánh giá quá trình thụ tinh dựa trên đánh giá số lượng của các tiền nhân (PN). Những hợp tử có ba tiền nhân xuất hiện được chuyển sang nuôi cấy đến ngày 5/6. Những phôi không có khả năng phát triển sau 24h sẽ bị loại bỏ. Cùng lúc đó, hình dạng phôi của các hợp tử 3PN phát triển qua từng ngày đều được ghi nhận lại (số lượng tế bào, tỉ lệ phân mảnh phôi, kích thước phôi bào) đối với phôi phân chia và độ nở rộng, ICM, TE đối với phôi nang. Sau đó, các tác giả tiến hành sinh thiết các phôi nang và phân tích đặc điểm di truyền của NST bằng phương pháp NGS.

  1. Kết quả
Có tổng cộng 33 phôi phát triển từ hợp tử 3PN thu nhận được từ 18 cặp vợ chồng điều trị và có 30 phôi có kết quả sinh thiết.
Từ hình dạng phôi ngày 3 và ngày 5 quan sát được, nhóm tác giả đã phân tích sự tương quan giữa bất thường NST với đặc điểm hình thái của phôi ở hai giai đoạn này.
   + Sự tương quan giữa hình thái phôi giai đoạn phân chia với bất thường NST
Phôi phát triển từ hợp tử 3PN đến giai đoạn phôi ngày 3 được đánh giá dựa trên các tiêu chí: số phôi bào, độ đồng đều phôi bào, tỉ lệ phân mảnh. Kết quả cho thấy, 100% (n=3) các phôi loại 3 trong giai đoạn này đều mang bất thường NST. Đối với phôi loại 1 và phôi loại 2 thì tỉ lệ mang bất thường NST tương ứng là 66,7% và 75%. Tuy nhiên không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa ba nhóm phôi này.
   + Sự tương quan giữa hình thái phôi giai đoạn phôi nang với bất thường NST
Khác với phôi phân chia, các đặc điểm hình thái của phôi ở giai đoạn phôi nang đều có sự tương quan với tình trạng của NST. Các phôi nang có độ nở rộng nhỏ hơn 3 có khả năng cao mang bất thường NST (khi so sánh với độ nở rộng là 4). Có 41,1% phôi nang có ICM loại A là nguyên bội trong khi nếu chất lượng ICM không phải loại A thì tỉ lệ cao mang bất thường NST. Tương tự với đặc điểm hình thái của TE, những phôi nang có phân loại TE tốt thì có tỉ lệ phôi mang NST bình thường cao hơn so với các phôi nang có chất lượng TE kém.

  1. Kết luận
Hình thái phôi giai đoạn phôi nang có sự tương quan chặt chẽ với tình trạng NST ở những phôi phát triển từ hợp tử 3PN. Với những trường hợp bệnh nhân sau khi thực hiện ICSI, tỉ lệ tạo phôi 2PN thấp, thì việc chọn lựa các phôi 3PN cần được tiến hành kĩ càng. Đối với phôi trong giai đoạn phân chia, tỉ lệ mang bất thường NST vẫn cao mặc dù phôi có đặc điểm hình thái tốt. Do đó việc chọn lựa phôi ở giai đoạn này cho kết quả không chính xác. Ngược lại, các tham số về đặc điểm hình thái của phôi nang cho kết quả khả quan hơn, nếu phôi có chất lượng ICM và TE tốt thì có khả năng cao mang NST bình thường khi kết hợp với kỹ thuật sàng lọc di truyền tiền làm tổ.

Nguồn: Shanty Olivia Jasirwan, Pritta Ameilia Iffanolida, Victor Prana Andika Santawi, Dewi Friska, Budi Wiweko (2019), Relationship between Morphology of Tripronuclear Embryo and Chromosomal Abnormalities Potential in Intracytoplasmic Sperm Injection Cycles.
Journal of Natural Science, Biology and Medicine. DOI: 10.4103/jnsbm.JNSBM_19_19

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK