Tin tức
on Monday 30-11-2020 1:00pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Hiện nay tại đa số các trung tâm IVF, phôi được lựa chọn chuyển cho bệnh nhân chủ yếu dựa trên hình thái phôi. Với sự phát triển của hệ thống nuôi cấy, phôi được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang để chuyển đơn phôi cho bệnh nhân. Chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên độ nở rộng của khoang phôi, số lượng và sự nén chặt của các tế bào ICM và TE. Tuy nhiên tỉ lệ thai khi chuyển phôi nang vẫn còn thấp. Kỹ thuật PGT-A ra đời cho phép lựa chọn được phôi nang nguyên bội từ đó giúp cải thiện tỉ lệ thai cho bệnh nhân. Tuy nhiên đây là một kỹ thuật xâm lấn và có chi phí cao. Gần đây, các thông số động học phôi được xem là dấu hiệu không xâm lấn để đánh giá tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi. Cho đến nay số lượng nghiên cứu về mối tương quan giữa động học phôi nang giai đoạn nở rộng và đặc điểm di truyền phôi vẫn còn hạn chế do đó Thomas TF Huang và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này.
Nghiên cứu hồi cứu trên 188 phôi nang của 34 chu kỳ PGT-A, thực hiện từ tháng 01/2015 đến tháng 06/2016. Bệnh nhân tham gia nghiên cứu có độ tuổi trong khoảng 22-42 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian nở rộng khoang phôi nang nguyên bội nhanh hơn đáng kể so với phôi lệch bội (p<0,005), phân tích sâu hơn cho thấy sự khác biệt bắt đầu từ lúc 4 giờ và tiếp tục đến 10 giờ. Thời gian trung bình của sự bắt đầu hình thành phôi nang sớm hơn ở phôi nguyên bội (105,7 giờ) so với phôi lệch bội (108,1 giờ). Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra rằng tuổi mẹ có tác động đáng kể đến đặc điểm di truyền của phôi. Ở những bệnh nhân dưới 35 tuổi có hơn 56% phôi nguyên bội.
Như vậy, nghiên cứu này chỉ ra rằng động học sự nở rộng của phôi người có liên quan đến đặc điểm di truyền của phôi. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng về phương pháp lựa chọn phôi không xâm lấn dựa trên động học của phôi.
Nguồn: Early blastocyst expansion in euploid and aneuploid human embryos: evidence for a non-invasive and quantitative marker for embryo selection. RBMO. 10.1016/j.rbmo.2019.01.010 1472-6483 2019.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hàm lượng mtDNA phôi không phải là dấu ấn sinh học tiềm năng cho sự làm tổ - Ngày đăng: 30-11-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về corticosteroids trước sinh đối với thai non tháng nhẹ cân - Ngày đăng: 30-11-2020
Giá trị tiên đoán thai lưu của “DẤU HIỆU TÚI ỐI” - Ngày đăng: 30-11-2020
Mất sóng tâm trương kéo dài trên doppler động mạch rốn và kết cục thai kỳ - Ngày đăng: 30-11-2020
Khói thuốc, rượu và thuốc gây nghiện đối với khả năng sinh sản nữ - Ngày đăng: 30-11-2020
Mối liên quan giữa cà phê và rượu với thông số tinh dịch và kết cục thụ tinh trong ống nghiệm ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 30-11-2020
Mối liên quan giữa rượu và các thông số tinh dịch ở nam giới vô sinh nguyên phát và thứ phát: một nghiên cứu cắt ngang - Ngày đăng: 30-11-2020
Bảo tồn khả năng sinh sản cho nữ giới bị ung thư - Ngày đăng: 30-11-2020
Rượu và chất lượng tinh dịch: một phân tích gộp và tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 26-11-2020
Uống rượu và các thông số tinh dịch: một phân tích cắt ngang của nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu tại một phòng khám sinh sản Ý - Ngày đăng: 26-11-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK