Tin tức
on Monday 30-11-2020 12:56pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Ước tính có khoảng 15-20% trường hợp sẩy thai trong ba tháng đầu thai kỳ. Tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm dân số, ví dụ như phụ nữ lớn hơn 35 tuổi, có yếu tố bất thường phụ khoa đi kèm sẽ có tỷ lệ cao hơn. Việc xác định thai lưu sớm trong thực hành có thể không đơn giản, vì bác sĩ đưa ra chẩn đoán sẽ cố gắng giảm thiểu tình trạng sai sót, có thể kéo dài thời gian theo dõi và ảnh hưởng tâm lý của thai phụ. Sau một số báo cáo ghi nhận các trường hợp thai bình thường bị chẩn đoán nhầm là sẩy thai, Abdallah và cộng sự đã đề xuất các tiêu chuẩn mới để chẩn đoán phôi thai lưu sớm, đó là túi thai trống có đường kính trung bình là 25mm hoặc phôi thai không có hoạt động tim với chiều dài đầu mông 7mm. Các tiêu chuẩn này có mức độ an toàn cao, giúp tránh chẩn đoán sai, nhưng thai phụ cần phải đi tái khám nhiều lần cho đến khi có chẩn đoán xác định. Ngoài ra, trong một số trường hợp, kích thước của túi thai hoặc phôi thai không bao giờ đạt đến ngưỡng xác định này, dẫn đến tình trạng siêu âm lại nhiều lần do không chắc chắn trong chẩn đoán. Một nghiên cứu nhằm đánh giá giá trị chẩn đoán của dấu hiệu túi ối với phôi thai không có hoạt động tim thai trong chẩn đoán thai lưu sớm nhằm hỗ trợ cho việc quản lý thai sớm vừa công bố kết quả phân tích được.
Nghiên cứu thiết kế dạng đoàn hệ tiến cứu, đánh giá tất cả các phụ nữ mang thai < 14 tuần đến khám do đau và/hoặc ra huyết âm đạo, hoặc không triệu chứng nhưng có tiền căn thai ngoài tử cung, sẩy thai. Siêu âm đánh giá ghi nhận chi tiết tình trạng thai, bao gồm dấu hiệu túi ối trong trường hợp không có phôi thai sống (phôi thai không có hoạt động tim thai). Những trường hợp này được theo dõi cho đến khi có chẩn đoán xác định.
Tổng cộng có 6012 trường hợp tham gia nghiên cứu, trong số đó có 4221 (70,2%) chẩn đoán xác định trong lần siêu âm đầu tiên, 1135 (18,9%) trường hợp không chắc chắn về khả năng sống của phôi và 656 (10,9%) trường hợp thai không rõ vị trí. Tất cả những trường hợp không chắc chắn về khả năng sống đều được siêu âm theo dõi để phân biệt giữa thai sống và phôi thai lưu sớm. Dấu hiệu túi ối trong trường hợp phôi không có hoạt động tim thai ghi nhận được ở 134/1135 (15,3%) thai không chắc về khả năng sống trên siêu âm đầu tiên. Trong tất cả các trường hợp, chẩn đoán phôi thai lưu sớm đã được xác định ở tất cả 134 ca ở lần siêu âm tiếp theo. Sự hiện diện của túi ối ở phôi thai không có hoạt động ở lần khám đầu tiên có độ đặc hiệu là 100% (95% CI 98,53‐100,00), giá trị tiên đoán dương 100% và giá trị tiên đoán âm là 87,81% (95%CI 87,37‐88,24) trong chẩn đoán phôi lưu sớm.
Tổng số 1403/6012 (23,3%) trường hợp được giải thích tái khám theo dõi khi chưa chẩn đoán xác định, trong số đó khoảng 40,9% trường hợp chưa xác định vị trí thai. Bằng cách sử dụng sự hiện diện của túi ối không có phôi sống để chẩn đoán thai không phát triển ở lần khám đầu tiên, số lần siêu âm theo dõi các trường hợp không chắc khả năng sống sẽ giảm 14,4%, chiếm 11% tổng số lần siêu âm theo dõi trong thời gian nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu đi đến kết luận dấu hiệu túi ối ở phôi không có hoạt động tim thai trên siêu âm là dấu hiệu đáng tin cậy của tình trạng suy thai sớm và có thể giảm 11% số lần siêu âm theo dõi trong các trường hợp không chắc chắc chẩn đoán thai lưu sớm. Đây là nghiên cứu có cỡ mẫu lớn, tuy nhiên nhóm tác giả lo ngại việc xác định dấu hiệu này tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của người thực hiện. Do vậy, các nghiên cứu trong tương lai có thể đánh giá thêm về độ tin cậy của dấu hiệu này khi thực hiện ở nhiều trung tâm khác nhau, với mức độ tay nghề của người thực hiện siêu âm khác nhau.
Lược dịch từ: The predictive value of the presence of an amniotic sac without a visible embryonic heartbeat in the diagnosis of early embryonic demise – UOG November 2020.
https://doi.org/10.1002/uog.23533
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mất sóng tâm trương kéo dài trên doppler động mạch rốn và kết cục thai kỳ - Ngày đăng: 30-11-2020
Khói thuốc, rượu và thuốc gây nghiện đối với khả năng sinh sản nữ - Ngày đăng: 30-11-2020
Mối liên quan giữa cà phê và rượu với thông số tinh dịch và kết cục thụ tinh trong ống nghiệm ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 30-11-2020
Mối liên quan giữa rượu và các thông số tinh dịch ở nam giới vô sinh nguyên phát và thứ phát: một nghiên cứu cắt ngang - Ngày đăng: 30-11-2020
Bảo tồn khả năng sinh sản cho nữ giới bị ung thư - Ngày đăng: 30-11-2020
Rượu và chất lượng tinh dịch: một phân tích gộp và tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 26-11-2020
Uống rượu và các thông số tinh dịch: một phân tích cắt ngang của nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu tại một phòng khám sinh sản Ý - Ngày đăng: 26-11-2020
Hiệu quả dự đoán của các mô hình động học phôi KIDScore ™ Day 5 về làm tổ và trẻ sinh sống sau khi chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 20-11-2020
Mô hình trí tuệ nhân tạo dựa vào hệ proteomic của phôi nguyên bội và hình ảnh time-lapse: một nghiên cứu sơ bộ - Ngày đăng: 20-11-2020
Liệu IUI có phù hợp cho bệnh nhân >43 tuổi? - Ngày đăng: 20-11-2020
Bất thường mô học tinh hoàn ở trẻ chỉ có một tinh hoàn và khả năng vô sinh - Ngày đăng: 20-11-2020
ICSI hay IVF cổ điển sẽ có lợi cho bệnh nhân lớn tuổi vô sinh không do yếu tố nam giới - Ngày đăng: 20-11-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK