Tin tức
on Thursday 26-11-2020 1:58pm
Danh mục: Tin quốc tế
CTV Nguyễn Vĩnh Xuân Phương
Mối liên quan giữa uống rượu và chức năng sinh sản nam vẫn còn gây tranh cãi. Dựa trên sườn của một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, được thiết kế để khảo sát mối liên quan giữa lối sống và khả năng sinh sản, các nhà nghiên cứu người Ý đã thực hiện thêm một phân tích cắt ngang về chất lượng tinh dịch.
Người nam trong cặp hiếm muộn, được chuyển đến khám tại một Đơn vị Vô sinh tại Ý và thích hợp để thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ARTs), được hỏi về lối sống của họ bao gồm: BMI, hút thuốc, uống cà phê, nghề nghiệp, hoạt động thể chất lúc rảnh rỗi và uống rượu trước khi tiến hành ART. Thể tích tinh dịch, mật độ tinh trùng, tổng số tinh trùng và độ di động của tinh trùng được xác định. Tuổi tác, các yếu tố nguy cơ của giảm khả năng sinh sản, caffeine, hút thuốc, hoạt động thể chất, ngày kiêng xuất tinh và chế độ tiêu thụ calories hàng ngày được xem xét trong phân tích.
Giữa tháng 9/2014 và tháng 12/2016, các nhà nghiên cứu thu nhận 323 bệnh nhân nam, tuổi trung bình là 39,3. Có 31 người (9.6%) không uống rượu, 97 người (30.0%) uống rượu <1-3 đơn vị / tuần, 98 người (30.3%) 4-7 đơn vị / tuần và 97 người (30.0%) uống ≥ 8 đơn vị mỗi tuần. Khi so sánh với nhóm uống rượu <1-3 đơn vị mỗi tuần, thể tích tinh dịch trung vị cao hơn nhóm uống 4-7 đơn vị/tuần (3,0 mL, khoảng tứ phân vị IQR 2.0-4.0 so với 2.4 mL, IQR 1.7-3.5), cũng như tổng lượng tinh trùng (87.9 mil/mL, IQR 20.2-182.1 so với 51.5 mil/mL, IQR 15.2-114.7). Mối liên quan với mật độ tinh trùng cũng đáng kể, với xu hướng hình chữ U trong những nhóm uống rượu. Sau khi điều chỉnh những yếu tố gây nhiễu, những mối liên quan này vẫn tồn tại. Các liên quan tương tự cũng được quan sát thấy trong các phân nhóm đối với hoạt động thể chất và các yếu tố nguy cơ của giảm khả năng sinh sản, mặc dù những chỉ số ước tính chưa đạt được ý nghĩa thống kê, có lẽ do cỡ mẫu nhỏ.
Nguồn: E Ricci, S Noli, S Ferrari, I La Vecchia, S Cipriani, V De Cosmi, E Somigliana, F Parazzini. Alcohol intake and semen variables: cross-sectional analysis of a prospective cohort study of men referring to an Italian Fertility Clinic. Andrology 2018 Sep;6(5):690-696. doi: 10.1111/andr.12521. Epub 2018 Jul 18.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hiệu quả dự đoán của các mô hình động học phôi KIDScore ™ Day 5 về làm tổ và trẻ sinh sống sau khi chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 20-11-2020
Mô hình trí tuệ nhân tạo dựa vào hệ proteomic của phôi nguyên bội và hình ảnh time-lapse: một nghiên cứu sơ bộ - Ngày đăng: 20-11-2020
Liệu IUI có phù hợp cho bệnh nhân >43 tuổi? - Ngày đăng: 20-11-2020
Bất thường mô học tinh hoàn ở trẻ chỉ có một tinh hoàn và khả năng vô sinh - Ngày đăng: 20-11-2020
ICSI hay IVF cổ điển sẽ có lợi cho bệnh nhân lớn tuổi vô sinh không do yếu tố nam giới - Ngày đăng: 20-11-2020
Dự đoán khả năng thai lưu sau laser điều trị truyền máu song thai biến chứng thai giới hạn tăng trưởng chọn lọc - Ngày đăng: 20-11-2020
Tuổi mẹ có tương quan với nguy cơ song thai cùng trứng sau chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 20-11-2020
Dự đoán kết quả thử thai sau chuyển phôi bằng hình ảnh và hệ thống máy học - Ngày đăng: 20-11-2020
Không có mối tương quan giữa tỉ lệ sinh sống sau chuyển phôi nguyên bội với nguyên nhân vô sinh và nguồn noãn trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 20-11-2020
Tác hại của cần sa đối với khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 20-11-2020
Sử dụng cần sa khi mang thai và cho con bú - Ngày đăng: 20-11-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK