Tin tức
on Tuesday 27-10-2020 9:22am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh
Kích thích buồng trứng rất quan trọng trong hỗ trợ sinh sản vì giúp người phụ nữ có đủ số lượng noãn để tạo phôi trong IVF. Các nang noãn thông qua kích thích buồng trứng sẽ phát triển với tốc độ khác nhau, việc giám sát và theo dõi dựa trên kích thước của nang noãn thay vì khả năng của chúng. Một số nghiên cứu cho thấy các nang noãn đường kính lớn hơn có nhiều khả năng cho ra các noãn bào trưởng thành, có khả năng thụ tinh và phát triển thành phôi chất lượng tốt. Các nang nhỏ hơn cho tỷ lệ thấp hơn (60%).
HCG thường được sử dụng như một chất thay thế cho LH, nhằm mục đích gây ra sự hoàng thể hóa của các tế bào hạt, sự trưởng thành của noãn bào và tái giảm phân. Phương pháp điều trị này dựa trên giả định rằng kích thước nang noãn dự đoán khả năng phát triển của noãn. Kết quả sau khi dùng HCG là có một số noãn trưởng thành và có đủ năng lực để thụ tinh và phát triển thành phôi.
Gần đây hơn, một phương thức mới để kích hoạt sự trưởng thành của nang noãn đã được sử dụng, nhằm mục đích cải thiện tỷ lệ noãn trưởng thành. Các đánh giá cho thấy chất lượng noãn bào / phôi tương đương hoặc thậm chí tốt hơn sau khi kích hoạt trưởng thành noãn với GnRH agonist so với kích hoạt với HCG. GnRHa hiện được sử dụng đồng thời với kích hoạt HCG tiêu chuẩn, để cải thiện năng suất và chất lượng noãn / phôi.
Dựa vào những căn cứ trên, nghiên cứu này tìm cách đánh giá mối liên hệ giữa kích thước nang noãn với sự phát triển và chất lượng noãn bào.
Trước khi chọc hút, các nang noãn được đo và chia thành ba nhóm theo kích thước tối đa: lớn ≥16 mm, trung bình 13-15 mm và nhỏ <13 mm. Tách riêng noãn thu được theo kích thước nang. Đánh giá sự thụ tinh, kết quả phôi theo kích thước nang.
Tổng cộng có 640 nang đã được đo, bao gồm 402 (62,8%) nang lớn, 148 (23,1%) nang vừa và 90 (14,1%) nang nhỏ. Noãn thu được trong quá trình hút từ các nang lần lượt là 76,3%, 70,3% và 55,6% của các nhóm nang lớn, vừa và nhỏ (P = 0,001). Tỷ lệ noãn trưởng thành (metaphase II) cao hơn đáng kể ở nhóm lớn (P = 0,001) và trung bình (P = 0,01) so với nhóm nang nhỏ. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa các nhóm được quan sát thấy trong thụ tinh hoặc tỷ lệ phôi chất lượng tốt bất kể kích thước của nang.
Tỷ lệ thu hồi noãn cao hơn đã được quan sát từ các nang> 13 mm, tuy nhiên, noãn trưởng thành đạt được sự thụ tinh tương tự và tỷ lệ phôi chất lượng tốt bất kể kích thước nang. Trigger không ảnh hưởng đến thu hồi noãn.
Nguồn: The association between follicle size and oocyte development as a function of final follicular maturation triggering (2020). doi: 10.1016/j.rbmo.2020.02.005.
HCG thường được sử dụng như một chất thay thế cho LH, nhằm mục đích gây ra sự hoàng thể hóa của các tế bào hạt, sự trưởng thành của noãn bào và tái giảm phân. Phương pháp điều trị này dựa trên giả định rằng kích thước nang noãn dự đoán khả năng phát triển của noãn. Kết quả sau khi dùng HCG là có một số noãn trưởng thành và có đủ năng lực để thụ tinh và phát triển thành phôi.
Gần đây hơn, một phương thức mới để kích hoạt sự trưởng thành của nang noãn đã được sử dụng, nhằm mục đích cải thiện tỷ lệ noãn trưởng thành. Các đánh giá cho thấy chất lượng noãn bào / phôi tương đương hoặc thậm chí tốt hơn sau khi kích hoạt trưởng thành noãn với GnRH agonist so với kích hoạt với HCG. GnRHa hiện được sử dụng đồng thời với kích hoạt HCG tiêu chuẩn, để cải thiện năng suất và chất lượng noãn / phôi.
Dựa vào những căn cứ trên, nghiên cứu này tìm cách đánh giá mối liên hệ giữa kích thước nang noãn với sự phát triển và chất lượng noãn bào.
Trước khi chọc hút, các nang noãn được đo và chia thành ba nhóm theo kích thước tối đa: lớn ≥16 mm, trung bình 13-15 mm và nhỏ <13 mm. Tách riêng noãn thu được theo kích thước nang. Đánh giá sự thụ tinh, kết quả phôi theo kích thước nang.
Tổng cộng có 640 nang đã được đo, bao gồm 402 (62,8%) nang lớn, 148 (23,1%) nang vừa và 90 (14,1%) nang nhỏ. Noãn thu được trong quá trình hút từ các nang lần lượt là 76,3%, 70,3% và 55,6% của các nhóm nang lớn, vừa và nhỏ (P = 0,001). Tỷ lệ noãn trưởng thành (metaphase II) cao hơn đáng kể ở nhóm lớn (P = 0,001) và trung bình (P = 0,01) so với nhóm nang nhỏ. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa các nhóm được quan sát thấy trong thụ tinh hoặc tỷ lệ phôi chất lượng tốt bất kể kích thước của nang.
Tỷ lệ thu hồi noãn cao hơn đã được quan sát từ các nang> 13 mm, tuy nhiên, noãn trưởng thành đạt được sự thụ tinh tương tự và tỷ lệ phôi chất lượng tốt bất kể kích thước nang. Trigger không ảnh hưởng đến thu hồi noãn.
Nguồn: The association between follicle size and oocyte development as a function of final follicular maturation triggering (2020). doi: 10.1016/j.rbmo.2020.02.005.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sự trao đổi chất của phôi không bị ảnh hưởng bởi phương thức thụ tinh - Ngày đăng: 27-10-2020
Hóa trị và giảm dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 27-10-2020
GM-CSF không có lợi cho phôi chất lượng kém - Ngày đăng: 27-10-2020
Sử dụng G-CSF cho bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần như thế nào là đúng - Ngày đăng: 27-10-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp kết cục của thai nhiễm CYTOMEGALOVIRUS bẩm sinh - Ngày đăng: 21-10-2020
lncRNA trong tinh tương dự đoán khả năng thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn đối với bệnh nhân vô tinh không bế tắc - Ngày đăng: 20-10-2020
Nguy cơ sa sút trí tuệ cao hơn ở những phụ nữ có thời kỳ sinh sản kéo dài - Ngày đăng: 20-10-2020
Không có mối tương quan giữa nồng độ Hyaluronan trong môi trường chuyển phôi với kết cục điều trị IVF - Ngày đăng: 20-10-2020
Nguy cơ thai ngoài tử cung khi sử dụng các biện pháp ngừa thai - Ngày đăng: 20-10-2020
Mối tương quan giữa số lượng phôi chuyển và nguy cơ tiền sản giật - Ngày đăng: 20-10-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK