Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 27-10-2020 9:21am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh

Kể từ ca sinh đầu tiên sau thụ tinh ống nghiệm vào năm 1978, hơn 8 triệu trẻ em đã được thụ thai bằng ART khi điều trị vô sinh nam. Trên toàn thế giới, khoảng 2/3 tất cả các quy trình ART được thực hiện liên quan đến ICSI và việc sử dụng ICSI đã tăng lên trong những năm gần đây với bất kể nguyên nhân nào dẫn đến vô sinh. Người ta đã đưa ra quan điểm rằng ICSI có thể có lợi ngay cả trong trường hợp không có yếu tố vô sinh liên quan đến nam giới, tránh thụ tinh thất bại hoàn toàn ước tính xảy ra trong khoảng 10% các chu kỳ IVF. Tỷ lệ thụ tinh ICSI cao hơn IVF đã được báo cáo bởi Komsky-Elbaz và cs năm 2013, khi so sánh các noãn sibling với mẫu tinh trùng bình thường. Một nghiên cứu của Staessen và cs năm 1999 cho kết quả rằng tỷ lệ phôi ICSI đạt đến giai đoạn 4 tế bào sau 42 giờ ICSI cao hơn đáng kể so với IVF. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã không xác định được bất kỳ tác động đáng kể nào của một trong hai phương thức thụ tinh đối với chất lượng phôi, khi chỉ đánh giá thông qua hình thái. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều câu hỏi về tính an toàn của kỹ thuật ICSI vì các thao tác liên quan khiến ICSI xâm lấn hơn đáng kể so với IVF thông thường.

Quy trình ICSI mang một số rủi ro đã xác định, có khả năng xảy ra sai hỏng trong quá trình tiêm, ví dụ, nguy cơ làm xáo trộn trục quay trong quá trình đưa pipet vào, nguy cơ tiêm các chất độc cho noãn. Hơn nữa, trong tự nhiên màng zona pellucida và oolema trên noãn có vai trò chọn lọc để gắn kết tinh trùng có hình thái bình thường, trong khi ICSI, tinh trùng được lựa chọn thông qua việc đánh giá chủ quan của người thực hiện. Ngoài ra, Terada và cộng sự năm 2000 đưa ra giả thuyết rằng việc giữ lại acrosome có thể gây rối loạn về mặt vật lý quá trình khử nhiễm sắc thể tinh trùng, dẫn đến mất đồng bộ nhiễm sắc thể.

Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng trẻ em sinh ra bởi ART đã làm tăng tần suất của một số rối loạn về căn nguyên biểu sinh. Các nghiên cứu cụ thể so sánh tỷ lệ dị tật trong IVF và ICSI những đứa trẻ được thụ thai cho đến nay vẫn chưa kết luận được, mặc dù bằng chứng gần đây cho thấy nam giới sinh ra từ ICSI có thể bị giảm số lượng tinh trùng. Tuy nhiên, các phân tích tổng hợp so sánh tỷ lệ dị tật ở trẻ được thụ thai tự nhiên và thông qua IVF hoặc ICSI đã không đạt được sự đồng thuận thỏa đáng. Việc thiếu nhóm đối chứng sẽ không thể xác định được rủi ro là do ảnh hưởng của vô sinh hay các biện pháp can thiệp cụ thể được sử dụng trong ART.

Sự trao đổi chất của phôi có thể cung cấp một dấu hiệu sinh học khách quan về sinh lý phôi thai người. Bằng chứng thuyết phục đã chỉ ra rằng việc tiêu thụ và giải phóng các chất chuyển hóa vào môi trường nuôi cấy phôi có thể dùng như một phương tiện định lượng để đánh giá chất lượng phôi. Những dữ liệu này chỉ ra rằng trong mỗi giai đoạn phát triển, có các giá trị cao hơn và thấp hơn sự trao đổi chất bình thường cho thấy sự suy giảm khả năng sống. Uppangala và cộng sự (2016) đã mô tả sự khác biệt trong chuyển hóa axit amin giữa phôi có nguồn gốc từ cha mẹ bị vô sinh do yếu tố nam, so với phôi từ các trường hợp vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng. Cho đến nay, tác động của kỹ thuật IVF và ICSI đối với quá trình chuyển hóa phôi ở người vẫn chưa được đánh giá trực tiếp.

Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng một loạt các đánh giá chuyển hóa định lượng để so sánh kiểu hình và khả năng sống sót của từng phôi người được tạo ra bằng IVF với phôi sinh ra từ ICSI. Điều quan trọng là tác giả đã phân tích dữ liệu từ các cặp vợ chồng trải qua một chu kỳ điều trị IVF / ICSI. Những cách tiếp cận như vậy tạo cơ hội để xác định xem sự chuyển hóa phôi có liên quan đến phương thức thụ tinh hay liên quan đến mức độ nghiêm trọng của vô sinh do yếu tố nam của những bệnh nhân được điều trị.

Tất cả các phôi đã được hiến tại một trung tâm IVF lâm sàng duy nhất, vào Ngày 5, từ 36 bệnh nhân trong độ tuổi 18-38. Dữ liệu cho thấy rằng tiêu thụ glucose và pyruvate, và sản xuất Lactate, không khác biệt giữa phôi tạo ra bởi IVF hoặc ICSI. Tương tự, thụ tinh không ảnh hưởng đến hàm lượng chất béo trung tính của phôi. Tuy nhiên, phôi có nguồn gốc ICSI cho thấy axit amin hoạt động mạnh hơn (P = 0,023), so với phôi IVF. Các axit amin cụ thể được sản xuất với số lượng cao hơn từ ICSI so với phôi IVF là aspartate (P = 0,016), asparagine (P = 0,04), histidine (P = 0,021) và threonine (P = 0,009) trong khi mức tiêu thụ leucine thấp hơn đáng kể (P = 0,04). Tuy nhiên, quan trọng là không có sự khác biệt trong chuyển hóa axit amin rõ ràng đối với các noãn sibling phải chịu một trong hai cơ chế thụ tinh. Hình thái phôi và sự phát triển (tỷ lệ đạt đến giai đoạn phôi nang) là tương đương ở những bệnh nhân trải qua IVF và ICSI.

Tóm lại, ICSI dường như không có tác động đến sự trao đổi chất và khả năng sống. Sự khác biệt quan sát thấy trong chuyển hóa axit amin có thể được quy cho yếu tố vô sinh nam của bệnh nhân thay vì ICSI.

Nguồn: Metabolic profile of in-vitro derived human embryos is not affected by the mode of fertilization (2020). DOI: 10.1093/molehr/gaaa015.
Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK