Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 31-08-2020 2:40pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận 

Chuyển nhiều hơn một phôi đã được áp dụng nhằm cải thiện tỷ lệ làm tổ thấp, nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ đa thai. Mặc dù nghiên cứu công bố hướng dẫn lâm sàng và giảm số lượng phôi được chuyển, chuyển hai phôi vẫn là cách phổ biến nhất. Những năm gần đây, xu hướng chuyển đơn phôi (SET) đã được xem xét áp dụng nhằm giảm đa thai. Nhưng hiện tại vẫn không có bằng chứng rõ ràng về việc đối tượng bệnh nhân nào nên SET, và nó thường được chỉ định cho bệnh nhân tiên lượng tốt. Theo Hiệp hội sinh sản Hoa Kỳ (ASRM)/ Hiệp hội công nghệ hỗ trợ sinh sản (SART) thì nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt là có tuổi < 38, có vài lần chuyển phôi nguyên bội được xác định bằng PGT-A. Tuy nhiên, các yếu tố vô sinh khác có thể ảnh hưởng đến tiên lượng để SET như thế nào vẫn chưa được hiểu rõ.

Vì thế, nghiên cứu này được thực hiện với mục đích là đánh giá tỷ lệ thai lâm sàng (CPR) của các chu kỳ SET phôi trữ đối với những phụ nữ có các yếu tố vô sinh khác nhau.

Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đánh giá 305 chu kỳ SET phôi trữ được thực hiện trong 10 năm qua tại một trung tâm IVF. Các chu kỳ được phân loại theo yếu tố vô sinh được hiệp hội SART phân loại là vô sinh do giải phẫu nữ (n = 55), nội tiết nữ (n = 26), lạc nội mạc tử cung (n = 37), suy buồng trứng (n = 26), vô sinh do nam (n = 37), chưa rõ nguyên nhân (n = 24), nhiều yếu tố (n = 45) và khác (n = 32). CPR được so sánh giữa các nhóm và phân tích đa biến được thực hiện để đánh giá mối liên quan của từng yếu tố vô sinh với CPR, được điều chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu.

Đặc điểm nền bệnh nhân bao gồm: độ tuổi từ 18-44 tuổi (35,9 ± 3,8), chỉ số khối cơ thể là 22,4 ± 3,1 kg/m2, FSH huyết thanh cơ bản là 7,4 ± 8,3 IU / ml và số noãn trưởng thành MII là 11,0 ± 8.4 MII và số phôi trữ là 6,4 ± 5,3. Tỉ lệ thai lâm sàng (CPR) theo các yếu tố vô sinh là: vô sinh do giải phẫu nữ (25,9%), nội tiết nữ (30,8%), lạc nội mạc tử cung (27,8%), suy buồng trứng (21,7%), vô sinh do nam (20,7%), chưa rõ nguyên nhân (9,5%), nhiều yếu tố (17,1%) và khác (20,7%). Phân tích đa biến không cho thấy mối liên quan đáng kể của các yếu tố vô sinh và CPR khi đã được điều chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu.

Như vây, tỉ lệ thai lâm sàng của các bệnh nhân có yếu tố vô sinh khác nhau vẫn thỏa đáng sau khi chuyển đơn phôi, ngoại trừ vô sinh chưa rõ nguyên nhân. Đây là nghiên cứu hồi cứu cỡ mẫu nhỏ với kết quả sơ bộ. Cần có các chính sách chuyển phôi phù hợp với từng nhóm đối tượng bệnh nhân nhằm cá thể hoá trong điều trị IVF.
 
Nguồn: Should single embryo transfer be used in patients with any kind of infertility factor? Preliminary outcomes, JBRA Assisted Reproduction, 2019; doi: 10.5935/1518-0557.20190006

Các tin khác cùng chuyên mục:
Giang mai và thai kỳ - Ngày đăng: 27-03-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK