Tin tức
on Monday 31-08-2020 2:38pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI). IVF được coi là kỹ thuật điều trị được lựa chọn cho nhiều nguyên nhân vô sinh khác nhau. Tuy nhiên, hiệu quả của nó bị hạn chế đối với vô sinh nữ và các trường hợp vô sinh nam. Ngược lại, ICSI có lợi cho nhiều nguyên nhân vô sinh do nam giới với tỷ lệ thành công cao tới 70%. Một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy ICSI cho hiệu quả tốt hơn đáng kể trong các trường hợp vô sinh chưa rõ nguyên nhân, và kết luận rằng nên sử dụng ICSI thường quy trong những trường hợp như vậy. Trong khi đó vẫn còn thiếu bằng chứng để ủng hộ việc sử dụng ICSI hơn là IVF ở nhóm vô sinh không do nam giới. Vô sinh chưa rõ nguyên nhân và các trường hợp vô sinh nữ khác không được tìm thấy lợi ích từ ICSI. Hơn nữa, việc áp dụng ICSI thường quy thay vì IVF cổ điển ở tất cả các trường hợp vô sinh không do nam giới vẫn sẽ làm tăng tỷ lệ có thai và trẻ sinh sống. Tuy nhiên, đã có ước tính rằng để một cặp vợ chồng được hưởng lợi từ ICSI thay vì IVF, thì có khoảng 30 cặp vợ chồng điều trị bằng ICSI và sẽ không nhận được bất kỳ kết quả nào khác với IVF cổ điển.
Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp này được thực hiện trên 20 nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu ngẫu nhiên (RCT) nhằm xác định hiệu quả điều trị của IVF so với ICSI ở nhóm vô sinh không phải do nam giới.
Kết quả ghi nhận là:
- Tỉ lệ thụ tinh như nhau giữa 2 nhóm IVF và ICSI (RR = 0,94; 95 %CI [0,82-1,07]; p = 0,34)
- IVF cho tỉ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với ICSI (RR = 1,28, 95 %CI [1,11- 1.49]; p = 0,001).
- Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ (RR = 1,25 , 95 % CI [0,92 - 1,68]; p = 0,15) và trẻ sinh sống (RR = 1,08 , 95 % CI [0,79 – 1,49]; p = 0,62) cũng tương đương ở 2 nhóm
Nguồn: Higher clinical pregnancy rate with in-vitro fertilization versus intracytoplasmic sperm injection in treatment of non-male factor infertility: Systematic review and meta-analysis, Journal of Gynecology Obstetrics and Human Reproduction, 2020, https://doi.org/10.1016/j.jogoh.2020.101706
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nên thực hiện sinh thiết phôi bào cho PGT-M trước hay sau khi trữ-rã phôi bằng phương pháp thuỷ tinh hoá? - Ngày đăng: 31-08-2020
Một số yếu tố dự đoán khả năng thành công trong chu kỳ IUI - Ngày đăng: 31-08-2020
Mối tương quan giữa đa hình nhiễm sắc thể và kết quả thai sau chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 27-03-2021
HPV là phương pháp được ưa chuộng để tầm soát ung thư cổ tử cung - Ngày đăng: 31-08-2020
Giang mai và thai kỳ - Ngày đăng: 27-03-2021
Chọc hút vào các mùa nào trong năm cho kết quả điều trị tốt nhất? - Ngày đăng: 28-08-2020
Vai trò của hình thái noãn trong sự phát triển và làm tổ của phôi - Ngày đăng: 27-03-2021
Kinh nghiệm của chuyên viên phôi học có ảnh hưởng đến kết quả ICSI hay không? - Ngày đăng: 27-03-2021
Nồng độ oxit nitric và khả năng chống oxy hóa của tinh tương ở nam giới vô sinh có hút thuốc lá - Ngày đăng: 25-08-2020
Ảnh hưởng của hút thuốc lá lên các thông số tinh dịch đồ của nam giới bị vô sinh - Ngày đăng: 25-08-2020
Vô sinh nam do lối sống - Ngày đăng: 25-08-2020
Vai trò của cadherin 6 (CDH6) trong điều hoà sự tiếp nhận sự làm tổ của phôi - Ngày đăng: 22-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK