Tin tức
on Wednesday 29-07-2020 7:38am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Ngô Ngọc Phương Thùy – IVFAS
Những người đàn ông trì hoãn kế hoạch có con dần dần đã trở thành một xu hướng ở các nước phát triển. Tuy nhiên, hệ quả của xu hướng này lại ít được hiểu rõ. Từ năm 1980, tỷ lệ sinh tại Mỹ tăng 40% ở đàn ông độ tuổi từ 35-49, và giảm 20% ở đàn ông độ tuổi thấp hơn 30. Mặc dù người ta biết rằng tuổi mẹ là yếu tố quan trọng dẫn đến vô sinh, nhưng tuổi người chồng càng cao có liên quan đến việc giảm các thông số tinh dịch đồ, bất thường nhiễm sắc thể và giảm khả năng sinh sản. DNA tinh trùng rất nhạy cảm với stress oxy hóa, dẫn đến ảnh hưởng lên sự phát triển của phôi, tăng nguy cơ đột biến gen, sẩy thai, dị tật bẩm sinh và gia tăng tần suất bệnh ở con cái.
Nghiên cứu ở đây xác nhận những người đàn ông lớn tuổi sản xuất nhiều tinh trùng bị tổn thương DNA hơn. Nguồn gốc của tổn thương này có thể từ stress oxy hóa, sự thoát khỏi quá trình apoptosis dẫn đến đứt gãy mạch DNA. Phân tích tinh dịch đồ về mật độ, độ di động và hình dạng tinh trùng đã trở thành tiêu chuẩn vàng trong phân tích khả năng sinh sản của nam giới trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, kết quả tinh dịch đồ không thể dự đoán hoàn toàn được khả năng sinh sản của nam giới. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc đo lường độ phân mảnh tinh trùng (SDF) có thể cung cấp thêm thông tin về vô sinh do yếu tố nam giới.
Nghiên cứu của Wyrobek cho thấy tuổi tác là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến nhiễm sắc chất. Họ đã nhận thấy giá trị %DFI trung bình gần như hơn gấp đôi giữa nhóm 20 tuổi và 60 tuổi. Nghiên cứu của Wyrobek và cộng sự đối với những người đàn ông hiến tinh trùng cho thấy giá trị %DFI tăng gấp 5 lần giữa 20 và 80 tuổi. Người đàn ông lớn tuổi hơn sản xuất nhiều tinh trùng bị tổn thương DNA hơn do sự gia tăng stress oxy hóa và có sự thay đổi trong quá trình apoptosis tế bào mầm sinh tinh trong tinh hoàn.
Số liệu SCSA trong báo cáo này thể hiện mối tương quan giữa tuổi của người đàn ông và độ nén chặt của nhiễm sắc chất. Bất thường trong quá trình nén chặt nhân tinh trùng ảnh hưởng đến một chuỗi các sự kiện phức tạp như sắp xếp các cấu trúc liên kết, thay đổi loại protein gắn trên DNA, thay đổi trong phiên mã, mất cấu trúc nhiễm sắc thể, sự nén chặt bất thường của nhiễm sắc chất, dẫn đến rối loạn bên trong gen và giảm chức năng của tinh trùng, cuối cùng làm giảm khả năng thụ tinh bình thường, ảnh hưởng đến khả năng phát triển của phôi và can thiệp vào chức năng chính của tinh trùng là thông tin di truyền từ người cha.
Mặc dù đã có những hiểu biết về tỷ lệ HDS cao bất thường có thể dẫn đến phôi chết sớm và sẩy thai, lý do cho việc này còn gây tranh cãi vì có ý kiến cho rằng nó có liên quan đến gia tăng nguy cơ lệch bội.
Mẫu tinh dịch từ 25.445 người đàn ông độ tuổi từ 21 – 80 được gửi đến SCSA Diagnostics (Brookings, SD) từ khoảng 200 trung tâm hiếm muộn ở Bắc Mỹ và Châu Âu và mẫu thu nhận tại nhà. Mẫu được lấy sau khoảng thời gian kiêng xuất tinh từ 2 đến 5 ngày.
Người tham gia nghiên cứu còn gồm những nhân viên hoặc người đã nghỉ hưu ở Lawrence Livermore National Laboratory, sinh viên đại học và sau đại học có sức khỏe tốt qua báo cáo cá nhân. Họ đã cung cấp mẫu tinh trùng sau 5.1 ngày kiêng xuất tinh. Trong số họ, 79% chưa bao giờ hút thuốc, 44% sử dụng thuốc bổ sung vitamin thường xuyên. Hai phần ba người đàn ông (56/87) đã có con (19/87 người đàn ông trong độ tuổi từ 20-29 chưa kết hôn hay chưa có dự định có con).
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa độ tuổi và mức độ phân mảnh DNA tinh trùng. Nghiên cứu này cho thấy bệnh nhân 20 - 25 tuổi có %DFI là 12%. Ở độ tuổi 40 – 45, %DFI tăng lên 19%, điều này làm giảm khả năng sinh sản, đặc biệt nếu một hay nhiều hơn một giá trị tinh dịch đồ bất thường. Ở độ tuổi 60, %DFI tăng gần gấp đôi lên đến 37%.
HDS ở bệnh nhân đến thăm khám tại các trung tâm hiếm muộn thay đổi tuyến tính cùng với tuổi, từ 12.2%HDS ở độ tuổi 20 – 25 còn 7,9%HDS ở độ tuổi 60 – 65.
Khi người đàn ông càng lớn tuổi thì tính toàn vẹn DNA càng giảm. Điều quan trọng cần lưu ý là sự gia tăng %DFI và giảm %HDS đối với 87 người đàn ông khỏe mạnh hiến tặng tinh trùng, trong độ tuổi từ 20 – 80, không có tiền sử vô sinh hoặc gặp các vấn đề sinh sản. Kết quả SCSA gần như tương tự ở nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu này gồm 25.000 người đàn ông đến khám tại các trung tâm hiếm muộn. Ở cả hai nhóm đều có sự gia tăng %DFI đáng kể ở 41 tuổi. Những thay đổi về %DFI và %HDS chủ yếu liên quan đến tuổi tác và không riêng gì đối với những bệnh nhân tại các phòng khám hiếm muộn. Tinh trùng trưởng thành không thể tự sửa chữa những DNA lỗi và phải dựa vào cơ chế sửa sai trong tế bào noãn để loại bỏ những lỗi sai trong DNA.
Vinnakota và cộng sự đã mô tả rằng khi thực hiện xét nghiệm lại sau khi đã cải thiện lối sống ở 29 cặp vợ chồng, trong đó người chồng ban đầu có %DFI cao (35% ± 9.5%), cho thấy 71.4% đã có kết quả %DFI giảm xuống mức trung bình đến thấp.
Nghiên cứu củng cố ý kiến rằng cả hai đánh giá DFI và HDS đều có thể đóng vai trò trong việc phát hiện vô sinh nam trong các trường hợp sẩy thai liên tiếp không thể giải thích bằng xét nghiệm thông thường. Dữ liệu DFI và HDS có thể giúp các bác sĩ lâm sàng dự đoán khả năng sinh sản của người đàn ông, xem xét các phương pháp điều trị chính xác, cũng như đánh giá nguy cơ đối với sức khỏe đời con.
Nguồn: Evenson DP, Djira G, Kasperson K & Christianson J (2020). Relationships between the age of 25,445 men attending infertility clinics and sperm chromatin structure assay (SCSA®) defined sperm DNA and chromatin integrity. Fertility and Sterility.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ không xâm lấn sử dụng phương pháp giải trình tự thế hệ mới (NGS) trên môi trường nuôi cấy phôi (SCM) - Ngày đăng: 29-07-2020
Tác động cộng hưởng của hút thuốc lá và giãn tĩnh mạch thừng tinh lên các thông số tinh dịch của 715 bệnh nhân - Ngày đăng: 29-07-2020
Đa Thai - Ngày đăng: 23-07-2020
Hút thuốc lá có liên quan với giảm chất lượng tinh dịch - Ngày đăng: 23-07-2020
Tỷ lệ trẻ sinh sống trong chu kỳ chuyển đơn phôi và hai phôi trữ là tương đương - Ngày đăng: 23-07-2020
Những biến đổi chuyển hóa của dịch nang noãn của phụ nữ béo phì điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 23-07-2020
Sự thay đổi chiều dài kênh cổ tử cung trong dự báo nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 23-07-2020
Mối liên quan giữa chất lượng tinh dịch và hút thuốc lá ở nam giới có khả năng sinh sản bình thường - Ngày đăng: 23-07-2020
Nhiễm sắc thể y ở người trong di truyền học và mối liên quan của nó với vô sinh nam - Ngày đăng: 23-07-2020
Kích hoạt phóng noãn hay không ở chu kỳ chuyển phôi trữ sử dụng phác đồ chu kỳ tự nhiên: Một nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 02-04-2021
Hiện trạng thực hiện xét nghiệm tiền làm tổ ở Anh và Hoa Kỳ - Ngày đăng: 21-07-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK