Tin tức
on Thursday 02-04-2020 9:35pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
Đánh giá chất lượng phôi thông qua hình thái là phương pháp thường được sử dụng phổ biến để phân loại phôi. Sau khi đánh giá, các phôi có chất lượng tốt sẽ được lựa chọn để trữ lạnh hoặc chuyển phôi, hầu hết các phôi có hình thái kém sẽ bị hủy mà không được sử dụng. Hiện nay, tỉ lệ làm tổ thành công ở các phôi chất lượng kém chưa được nghiên cứu kỹ và chưa có thống nhất trong việc sử dụng hay hủy các phôi kém chất lượng. Do đó, Anastasia Kirillova và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá mối tương quan giữa tỉ lệ thai và tỉ lệ trẻ sinh sống ở những phôi ngày 3, ngày 5 có chất lượng kém.
Đây là nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ năm 2012 đến năm 2016 trên 738 phôi chất lượng kém. Trong đó, số lượng phôi ngày 3 được chuyển tương ứng 402 phôi, số lượng phôi ngày 5 được chuyển là 336 phôi. Nhóm đối chứng có tổng cộng 9893 phôi chất lượng tốt và chất lượng trung bình. Phôi ngày 3 được đánh giá các tiêu chí về số lượng tế bào, độ đồng đều của phôi bào, tỉ lệ phân mảnh và bất thường tế bào chất theo đồng thuận Istanbul. Phôi ngày 5 được đánh giá dựa trên mức độ nở rộng của khoang phôi (từ 1 đến 6), số lượng tế bào trong khối ICM và TE (thang điểm từ A đến C). Những phôi được đánh giá là phôi có chất lượng kém bao gồm: phôi ngày 3 được xếp loại 3 theo đồng thuận Istanbul hoặc phôi ngày 5 có cả ICM và TE được đánh giá điểm C (CC) hoặc phôi không phát triển đến giai đoạn phôi nang. Những phôi ngày 3 loại I hoặc loại II, những phôi ngày 5 được đánh giá ICM và TE có ít nhất 1 điểm là A hoặc B (AA, AB, BB, BC và CB) được xem là phôi có chất lượng tốt.
Kết quả cho thấy:
- Tỉ lệ thai sinh hóa của những phôi ngày 3 và ngày 5 có chất lượng kém tương ứng 12,3% và 15,8% (p=0,294), tỉ lệ làm tổ (6,5% và 7,4%, p=0,6628), tỉ lệ trẻ sinh sống (7,7% và 8,3%, p= 0,8703), tỉ lệ sẩy thai (1,9% và 2,6%, p=0,762). Không có sự khác biệt về kết quả giữa chuyển phôi chất lượng kém tại thời điểm ngày 3 và ngày 5.
- Khi so sánh nhóm phôi chất lượng kém so với nhóm đối chứng, tất cả các kết cục lâm sàng đều thấp hơn ở nhóm phôi chất lượng kém: tỉ lệ thai sinh hóa tương ứng 13,9% và 37,2% (p<0,001), tỉ lệ làm tổ tương ứng 6,9% và 29,4% (p<0,001), tỉ lệ trẻ sinh sống là 8% và 23,1% (p<0,001), tỉ lệ sẩy thai (2,2% so với 6%, p<0,001).
Như vậy, nghiên cứu cho thấy chuyển phôi chất lượng kém vào ngày 3 hoặc ngày 5 không có khác biệt về tỉ lệ thai sinh hóa, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ trẻ sinh sống và sẩy thai. Tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm phôi có chất lượng kém và phôi có chất lượng trung bình/tốt, cụ thể là tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm phôi chất lượng kém. Dù vậy nguy cơ sẩy thai ở nhóm phôi chất lượng kém thấp hơn so với chuyển phôi có chất lượng tốt hoặc trung bình. Từ các kết quả của nghiên cứu, tác giả không ủng hộ việc hủy phôi chất lượng kém khi đó là lựa chọn duy nhất để chuyển phôi cho bệnh nhân.
Nguồn: Anastasia Kirillova và cs., (2020). Should we transfer poor quality embryos? Fertility Research and Practice. DOI:10.1186/s40738-020-00072-5.
Các tin khác cùng chuyên mục:
HORMONE tăng trưởng và các điều trị bổ trợ có vai trò không rõ ràng ở bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 02-04-2020
Chuẩn bị môi trường nuôi cấy IVF hai ngày trước khi thu nhận noãn có ảnh hưởng đến các thông số phôi học hay không? - Ngày đăng: 01-04-2020
Prosaposin trong tinh dịch có liên quan đến kết quả thụ tinh bình thường và sự phát triển của phôi trong chu kì IVF - Ngày đăng: 01-04-2020
So sánh tỉ lệ trẻ sinh sống khi nuôi cấy phôi ở nồng độ oxy thấp trong tủ cấy time-lapse và tủ cấy đơn ngăn - Ngày đăng: 01-04-2020
So sánh hiệu quả ICSI khi sử dụng tinh trùng thu nhận từ mào tinh và tinh hoàn ở bệnh nhân vô tinh do tắc - Ngày đăng: 01-04-2020
Ứng dụng phương pháp thủy tinh hóa trong trữ mô buồng trứng - Ngày đăng: 01-04-2020
Mối tương quan giữa Lipid trong huyết thanh và dịch nang với chất lượng noãn, phôi - Ngày đăng: 01-04-2020
Đông lạnh noãn nhằm bảo tồn khả năng sinh sản ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 01-04-2020
Ảnh hưởng của hóa trị, xạ trị đến chất lượng mô buồng trứng sau đông lạnh - Ngày đăng: 01-04-2020
Áp dụng kĩ thuật kích hoạt nang noãn (In Vitro Activation - Iva) trong tái cấy ghép mô buồng trứng ở bệnh nhân suy buồng trứng sớm - Ngày đăng: 01-04-2020
Độ dày của nội mạc tử cung có liên quan đến nguy cơ thai ngoài tử cung - Ngày đăng: 01-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Hội thảo trực tuyến, thứ bảy 21.9.2024 (11:00 - 13:00)
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 27.9.2024 và gửi đến quý hội viên HOSREM còn ...
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK