Tin tức
on Monday 24-02-2020 12:03pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Thanh Liêm – IVFMD Phú Nhuận
Hiện nay, kỹ thuật TESE và micro-TESE được dùng để thu nhận tinh trùng được lấy từ bệnh nhân azoospermia không tắc nghẽn có thể giúp những bệnh nhân này có con như mong muốn. Sau khi thu nhận, những tinh trùng này cần được trữ lạnh cho đến khi noãn của vợ được chọc hút, tuy nhiên, chỉ có một số lượng tinh trùng hạn chế được rã đông có thể tham gia vào quá trình này. Do đó, yêu cầu cần có kỹ thuật bảo quản lạnh thích hợp và hiệu quả trong trường hợp số lượng tinh trùng ít là rất quan trọng.
Một số phương pháp bảo quản lạnh tinh trùng số lượng ít đã được báo cáo như bảo quản tinh trùng vào màng zona pellucida trống, dùng viên nang gel agarose, các phương pháp này đều có những hạn chế riêng. Ngoài ra, phương pháp dùng môi trường Cryotop® được sử dụng để bảo quản noãn, phôi được sử dụng, mặc dù chúng không được phát triển để bảo quản lạnh tinh trùng. Từ đó, các kỹ thuật hoặc thiết bị mới cho phép dễ dàng trữ lạnh và rã đông tinh trùng trong một khoảng thời gian ngắn hơn và hạn chế mất tinh trùng cần được nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, mục đích tác giả nhằm phát triển một phương pháp đông lạnh và rã đông đơn giản, có thể được thực hiện đối với những trường hợp có số lượng tinh trùng hạn chế. Phương pháp này liên quan đến việc sử dụng một vật chứa mới không cần chuyển đổi nhiều vật chứa và do đó hạn chế mất tinh trùng. Nghiên cứu nhằm đánh giá tính hữu dụng và an toàn của vật chứa mới này bằng cách sử dụng tinh trùng người và chuột.
Kết quả nghiên cứu:
- Đầu tiên, sử dụng tinh trùng người để đông lạnh bằng hai dụng cụ chứa Cryotop và dụng cụ chứa mới, sau đó rã đông, tác giả đã chứng minh rằng tỷ lệ thu hồi tinh trùng khi sử dụng vật chứa mới là 96,7% (58/60), cao hơn đáng kể (P <0,05) so với 21,2% (11/52) khi sử dụng Cryotop®. Tỷ lệ di động của tinh trùng là 19,2% (10/52) khi sử dụng Cryotop® và 35,0% (21/60) khi sử dụng vật chứa mới.
- Thứ hai, tinh trùng mào tinh được chia thành ba nhóm: tinh trùng tươi, tinh trùng đông lạnh bằng cọng rạ và tinh trùng đông lạnh sử dụng dụng cụ chứa mới. Khả năng di chuyển của tinh trùng, màng tế bào và tính toàn vẹn DNA, sự phát triển in vitro của noãn được thụ tinh và sự phát triển của đời con sau khi chuyển phôi được đánh giá. Khả năng di động của tinh trùng trữ lạnh thấp hơn đối với mẫu tinh trùng được đông lạnh bằng cách sử dụng vật chứa mới so với tinh trùng tươi hoặc được đông lạnh bằng cọng rạ.
- Thứ 3, sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn chuột ở ba nhóm tinh trùng trên chuột, tỷ lệ sống sau ICSI là 96,7% (145/150), tỷ lệ phát triển phôi đến 2 tế bào là 90,3% (131/145) và tỷ lệ phát triển phôi nang là 77,2% (112/145), khi sử dụng dụng cụ chứa mới. Không có sự khác biệt về màng tinh trùng, tính toàn vẹn DNA hoặc tốc độ phát triển phôi đến giai đoạn phôi nang giữa các nhóm đông lạnh bằng phương pháp khác nhau. Sáu con chuột được sinh ra từ tinh trùng chuột đông lạnh trong vật chứa mới và chúng phát triển bình thường.
Kết luận, nghiên cứu này đã xác nhận tính tiện ích và an toàn của dụng cụ mới, cho phép dễ dàng xử lý một số lượng nhỏ tinh trùng và giảm thiểu mất tinh trùng trong quá trình bảo quản lạnh. Phát hiện của tác giả sẽ giúp phát triển các điều kiện cho việc sử dụng vật chứa mới trong môi trường lâm sàng.
Nguồn: Nakata, K., Yoshida, K., & Yamashita, N. (2019). Preclinical evaluation of a new cryopreservation container for a limited number of human spermatozoa. Journal of Reproduction and Development.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hở khuyết sẹo mổ lấy thai (isthmocele) và kích thích buồng trứng – điều trị thụ tinh ống nghiệm: sự cân nhắc cho các chuyên gia y học sinh sản - Ngày đăng: 28-02-2020
Chất chống oxy hóa làm tăng khả năng sống sót khi trữ lạnh và tăng khả năng phát triển của phôi nang sau thuỷ tinh hóa - Ngày đăng: 28-02-2020
So sánh hiệu quả ICSI khi sử dụng các nồng độ PVP (Polyvinylpyrrolidone) khác nhau - Ngày đăng: 21-02-2020
Mối tương quan giữa nồng độ vitamin D và tỉ lệ thụ tinh trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 21-02-2020
Mối tương quan giữa sai hỏng ngưng tụ nhiễm sắc chất và kết quả lâm sàng sau ICSI - Ngày đăng: 21-02-2020
Nuôi cấy phôi ở O2 nồng độ thấp giúp tăng số lượng phôi hữu dụng và tỉ lệ thai cộng dồn - Ngày đăng: 21-02-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về sử dụng vòng nâng cổ tử cung trong dự phòng sinh non ở thai kỳ nguy cơ cao sinh non - Ngày đăng: 19-02-2020
Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh siêu âm của xoắn phần phụ - Ngày đăng: 19-02-2020
Chỉ số trưởng thành noãn để đo lường chất lượng đoàn hệ noãn: nghiên cứu hồi cứu trên 3135 - chu kì ICSI - Ngày đăng: 19-02-2020
Nghiên cứu phân tích gộp về khoảng cách giữa thời điểm trigger bằng HCG và thời điểm chọc hút noãn trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 19-02-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Hội thảo trực tuyến, thứ bảy 21.9.2024 (11:00 - 13:00)
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 27.9.2024 và gửi đến quý hội viên HOSREM còn ...
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK