Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 14-05-2025 2:01am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CN Liên Mỹ Dinh – IVFMD SIH Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn

Giới thiệu
Mặc dù hiện nay, công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproduction Technology – ART) đã có những tiến bộ vượt bậc nhưng thất bại làm tổ nhiều lần (Recurrent Imphantation Failure - RIF) vẫn là một vấn đề lớn. Việc không có thai lâm sàng sau khi chuyển bốn phôi chất lượng tốt trong ít nhất ba chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc đông lạnh (ET) là định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất cho RIF. Tỷ lệ ước tính của RIF là 10%, với khoảng 50% các trường hợp có nguyên nhân không rõ². Thất bại làm tổ nhiều lần không rõ nguyên nhân (Unexplained RIF - u-RIF) là một vấn đề lâm sàng ảnh hưởng kinh tế và tâm lý lớn nên cần đưa ra các phương pháp điều trị hiệu quả để cải thiện kết cục mang thai ở bệnh nhân RIF. Nguyên nhân của RIF bao gồm sự suy giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung (NMTC), sự tương tác giữa phôi và NMCT hoặc các khiếm khuyết của thai nhi và các yếu tố miễn dịch. Liệu pháp dùng thuốc thông qua truyền dịch vào buồng tử cung đã được xem xét do những ưu điểm của nó bao gồm tính an toàn và ít xâm lấn, bởi vì, thuốc không trực tiếp đi vào hệ tuần hoàn mà sẽ được hấp thụ từ niêm mạc tử cung. Nhiều nghiên cứu chỉ ra việc truyền huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet rich plasma - PRP) vào buồng tử cung là phương pháp hiệu quả để cải thiện thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Liệu pháp dựa trên tế bào như PRP, do khả năng tái tạo mô thông qua sự biệt hóa tế bào, ngày càng trở nên phổ biến trong thập kỷ qua. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng PRP có khả năng làm tăng độ dày NMTC trong giai đoạn tăng sinh và cải thiện khả năng dung nạp miễn dịch trong giai đoạn chế tiết. Hiện nay tác dụng của PRP đối với tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng và trẻ sinh sống ở BN RIF đang có nhiều tranh cãi. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích khảo sát tác dụng của việc truyền PRP vào buồng tử cung ở bệnh nhân u-RIF trong các chu kỳ ET tươi và đông lạnh.

Vật liệu và phương pháp
Tổng cộng 80 người tham gia đến khám từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 11 năm 2021 đã được đưa vào nghiên cứu này. Những người tham gia được phân ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm có (nhóm 1) và không (nhóm 2) truyền PRP vào buồng tử cung theo danh sách ngẫu nhiên do máy tính tạo ra, không mù đôi. Mỗi nhóm PRP và nhóm đối chứng cũng được chia thành các nhóm nhỏ chuyển phôi tươi (ET tươi) và chuyển phôi đông lạnh (ET đông lạnh). Tiêu chí nhận vào nghiên cứu: phụ nữ vô sinh bị u-RIF; tuổi < 40 tuổi; 19 < chỉ số khối cơ thể (BMI) < 29 Kg/m². Tiêu chí loại trừ: rối loạn nội tiết, mắc bệnh tự miễn và huyết học; số lượng tiểu cầu dưới 150 x 10³/µl; bất thường nhiễm sắc thể và di truyền; tiền sử ung thư; bất thường tử cung; tiền sử phẫu thuật buồng trứng và tử cung; u xơ tử cung; lạc tuyến cơ tử cung; lạc nội mạc tử cung; ứ dịch vòi trứng; hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS); yếu tố nam giới trung bình đến nặng; hiến tặng noãn hoặc phôi. Ngoài ra còn cá các tiêu chí loại trừ phát sinh trong quá trình truyền PRP vào tử cung. Những người tham gia đủ điều kiện trước tiên được phân tầng thành hai nhóm ET tươi và ET đông lạnh. BN sẽ thực hiện kích thích buồng trứng, tạo phôi và chuẩn bị NMCT. Đối với các BN ET tươi, các phôi thu được đạt đến giai đoạn phôi nang. Đối với các ứng viên ET đông lạnh, các phôi được đông lạnh ở giai đoạn phân chia. Sau đó, tại thời điểm ET, chúng được rã đông và nuôi đến giai đoạn phôi nang. Huyết tương giàu tiểu cầu được chuẩn bị và bơm vào buồng tử cung của mẹ 48 ± 2 giờ trước ET. Sau đó, BN sẽ được hỗ trợ hoàng thể tiếp tục đến 12 tuần thai (khi BN đã có kết quả b-HCG dương). Kết quả chính được phân tích là tỷ lệ làm tổ. Chỉ số kết quả thứ chính là tỷ lệ trẻ sinh sống.

Kết quả
Sau quá trình loại trừ và huỷ chu kỳ nhóm 1 còn 34 BN và nhóm 2 còn 35 BN. Tỷ lệ mang thai lâm sàng cao hơn đáng kể ở nhóm PRP trong chuyển phôi đông lạnh (Frozen ET) so với các nhóm nhỏ khác. Tỷ lệ sảy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm PRP so với nhóm đối chứng. Các biến chứng thai kỳ và sinh non cao hơn đáng kể ở nhóm PRP so với nhóm đối chứng. Tỷ lệ trẻ sinh sống và trẻ khỏe mạnh cao hơn đáng kể ở nhóm PRP so với nhóm đối chứng.

Thảo luận
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy hiệu quả đáng kể của việc truyền PRP vào buồng tử cung trong việc tăng tỷ lệ mang thai, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ trẻ khỏe mạnh, đồng thời giảm tỷ lệ sảy thai ở bệnh nhân u-RIF. Mặc dù có nhiều nghiên cứu khảo sát việc truyền PRP vào buồng tử cung nhưng khuyến cáo của ESHRE 2023 và Hiệp hội Sinh sản Anh 2021 thấy chưa có bằng chứng đủ mạnh cho việc sử dụng sản phẩm này cho BN RIF. Chúng ta cần có thêm các nghiên cứu RCT để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của PRP. Ngoài ra, thể tích PRP được truyền vào tử cung của BN trong các chu kỳ FET cũng đã được tác giả điều tra. Tác giả cho rằng thể tích PRP được truyền có thể là một trong những lý do dẫn đến sự khác biệt đáng kể giữa nghiên cứu này và các nghiên cứu tương tự khác về tỷ lệ mang thai lâm sàng. Việc chuyển phôi nang và liều lượng truyền PRP được cho là đóng vai trò chính trong việc cải thiện kết quả mang thai của bệnh nhân. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ mắc các biến chứng thai kỳ (tiểu đường thai kỳ - GDM, tăng huyết áp thai kỳ - GH) cao hơn đáng kể ở nhóm PRP. Theo đó, câu hỏi đặt ra ở đây là liệu việc truyền PRP vào buồng tử cung có phải là nguyên nhân của sự tăng tỷ lệ mắc các biến chứng này hay không. Bởi vì, chúng ta biết rõ thành phần của PRP nhưng cần thêm các nghiên cứu về cơ chế hoạt động chính xác của nó. Điểm hạn chế của nghiên cứu là: đây là nghiên cứu không mù đôi. Bên cạnh đó, nghiên cứu có các điểm mạnh như : nghiên cứu đã báo cáo kết quả của PRP ở cả chu kỳ ET phôi tươi/đông lạnh và các biến chứng thai kỳ, tình trạng sức khoẻ của trẻ sau sinh. Vì nhiều nghiên cứu đã báo cáo tác dụng chống viêm của PRP, các nghiên cứu trong tương lai được khuyến nghị nên điều tra tác dụng của việc truyền PRP vào buồng tử cung ở bệnh nhân RIF mắc PCOS, lạc nội mạc tử cung và u xơ tử cung. Việc chuyển phôi nguyên bội có thể là một lĩnh vực nghiên cứu khác cho các nghiên cứu trong tương lai để đạt được kết quả chính xác và đáng tin cậy hơn về hiệu quả của PRP.

Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc truyền 0,8-1 ml PRP vào buồng tử cung 48 giờ trước khi chuyển phôi nang ở các chu kỳ tươi và đông lạnh có thể là một lựa chọn điều trị hiệu quả cho bệnh nhân u-RIF.
 
Nguồn: Yahyaei, A., Madani, T., Vesali, S., & Mashayekhi, M. (2024). Intrauterine infusion of autologous platelet rich plasma can be an efficient treatment for patients with unexplained recurrent implantation failure. Scientific Reports14(1), 26009.
 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK