Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 14-01-2011 1:59am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

phoi3Lựa chọn phôi để chuyển trong thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) vẫn còn là một vấn đề đang được tranh luận. Vấn đề tranh luận không còn liên quan nhiều đến các lo ngại về mặt đạo đức, bởi lẽ hiện nay hầu hết các nước đã chấp nhận nguyên tắc giảm tỉ lệ đa thai bằng cách chuyển ít phôi vào buồng tử cung hơn so với trước, mà vấn đề cần cân nhắc là phương pháp lựa chọn phôi như thế nào là chính xác và hiệu quả nhất.

Từ những ngày đầu tiên của TTTON, các phôi đã được chọn lựa dựa trên các tiêu chuẩn về mặt hình thái, và cho đến nay hình thái phôi vẫn còn là vũ khí đánh giá chính của labo TTTON. Hệ thống phân loại phôi đã được áp dụng tại từng địa phương, tại mỗi quốc gia, nhưng vẫn chưa xây dựng được hệ thống phân loại thống nhất cho toàn thế giới, và hình thái phôi vẫn còn phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan dựa trên tỉ lệ phân cắt, sự đồng bộ của phôi và tỉ lệ mảnh vỡ.

Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ tương quan cao giữa phân loại phôi ngày 3 và khả năng có thai, trong khi một số nghiên cứu khác thì không, đồng thời vẫn còn đó những nghịch lý không thể giải thích được rằng tại sao một số lớn các phôi được cho điểm số cao, hoặc thậm chí đã phát triển thành phôi nang có điểm số cao vẫn không làm tổ. Hơn một thập niên trước, một nghiên cứu từ Hà Lan cho thấy chỉ 47% phôi có chất lượng tốt được phân loại vào ngày 3 sẽ phát triển đến giai đoạn phôi nang (ngược lại, 21% phôi có chất lượng kém phát triển thành phôi nang), trong khi đó 45% phôi nhóm 1 và 2 và 69% phôi nhóm 3 và 4 bị ngưng phát triển và thoái hóa.

Vì không thể đoán trước được khả năng làm tổ của phôi khi dựa vào hình thái, người ta hi vọng sẽ tìm được những test khách quan hơn để đánh giá khả năng sống của phôi, đó là dựa trên tình trạng nhiễm sắc thể. Gần 20 năm trước, Munné và các đồng nghiệp ở Mỹ thấy rằng 70% các phôi phát triển bất thường chứa các sai lệch của 5 nhiễm sắc thể được khảo sát, và 29% các phôi có hình thái học bình thường bị lệch bội. Các thể lệch bội được phát hiện bởi kỹ thuật FISH (lai huỳnh quang tại chỗ), được thiết kế để phân tích 5 cặp nhiễm sắc thể ở người có liên quan nhiều nhất đến sự lệch bội. FISH có thể là bước đầu tiên của một nhà phôi học trên con đường tìm kiếm một xét nghiệm khách quan có thể xác định phôi nào có thể đảm bảo được khả năng làm tổ.

Các nghiên cứu quan sát quy mô nhỏ đầu tiên được khuyến khích thực hiện trên những phụ nữ có thể có tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể cao nhất – gồm những phụ nữ lớn tuổi và những người thất bại nhiều lần với TTTON những chu kỳ trước – dường như đã cải thiện được tỉ lệ có thai khi những phôi tiền làm tổ được tầm soát với FISH. Tuy nhiên, ít nhất 10 thử nghiệm ngẫu nhiên sau đó đã thất bại trong việc chỉ ra những lợi ích của FISH và thậm chí một nghiên cứu còn cho thấy tác dụng bất lợi của FISH.

Trong thời gian chưa đến vài tháng, FISH đã bị loại khỏi tiến trình của việc tầm soát phôi. Nguyên nhân là do việc sinh thiết phôi bào có thể có tác động xấu (một hoặc hai phôi bào được lấy đi từ phôi để phân tích); kết quả từ một tế bào không phản ánh toàn bộ tình trạng của phôi (vì có thể xảy ra tình trạng thể khảm); và FISH không thể tầm soát toàn bộ bộ nhiễm sắc thể.

Thay vào vị trí của FISH là sự xuất hiện của một kỹ thuật phân tích mới “toàn diện” được gọi là lai phân tử tương hợp (CGH - comparative genomic hybridization), và một lần nữa, theo như báo cáo của hai nghiên cứu gần đây, kỹ thuật này lại dấy lên sự hi vọng cho các nhà phôi học trong công cuộc tìm kiếm phương pháp chọn lựa phôi tối ưu.

Đầu tiên, một nghiên cứu thăm dò được tiến hành bởi Hội sinh sản và phôi học người Châu Âu (ESHRE), nhằm khảo sát khả năng ứng dụng của việc phân tích thể cực (chứ không phân tích phôi bào) bằng CGH như một phương tiện để tầm soát tiền làm tổ đã được báo cáo là đạt được các kết cục lâm sàng. Nghiên cứu này đánh giá việc khảo sát 23 nhiễm sắc thể của cả hai thể cực với CGH, cho thấy rằng phân tích có thể hoàn thành trong 12-13 giờ (do đó cho phép chuyển phôi tươi), và việc xác định chính xác tình trạng nhiễm sắc thể của một trứng là có thể thực hiện được trong hầu hết 90% các lần thử nghiệm.

Trình bày kết quả nghiên cứu tại hội nghị thường niên của ESHRE vào tháng 6, giáo sư Joep Geraedts nói: “Vì những sai lệch nhiễm sắc thể là nguyên nhân nổi bật của sự ngưng phát triển của phôi, chúng tôi hi vọng rằng phương pháp này trong tương lai sẽ cải thiện kết quả trong hỗ trợ sinh sản, đặc biệt là ở những phụ nữ lớn tuổi.” Lợi ích của việc sinh thiết thể cực là không có nhiều tế bào để tạo thành thể khảm vào giai đoạn này, và việc sinh thiết không phải là một thủ thuật xâm lấn.

Chỉ hai tháng sau, một nhóm làm việc ở Oxford, Anh và New Jersey và Colorado, Mỹ, đã báo cáo sự cải thiện kết quả TTTON ở các cặp vợ chồng có tiên lượng xấu với tiền sử thất bại làm tổ nhiều lần. Trong những trường hợp khó này, phân tích CGH được thực hiện ở cả hai thể cực (tương tự nghiên cứu của ESHRE) và tế bào ngoại bì phôi được lấy từ phôi nang của những bệnh nhân được nhận định là ứng cử viên tốt cho chuyển phôi nang. Một lần nữa, mục tiêu của nghiên cứu là xác định và chỉ chuyển những phôi bình thường về mặt di truyền tế bào sau khi đã tầm soát bằng CGH cho tất cả các nhiễm sắc thể, và tổng cộng có 117 hợp tử được sinh thiết thể cực thứ nhất và thứ hai, và 78 phôi nang được sinh thiết ngoại bì phôi.

Kết quả cho thấy tỉ lệ trứng (thể cực) và phôi nang (ngoại bì phôi) lệch bội lần lượt là 65,5% và 45,2%, với bất thường được phát hiện có liên quan đến tất cả các nhiễm sắc thể. Tỉ lệ làm tổ và có thai đối với những bệnh nhân được sinh thiết thể cực lần lượt là 11,5% và 21,4%, và cao hơn nhiều trong nhóm sinh thiết phôi nang và CGH, lần lượt là 58,3% và 69,2%.

“Tầm soát nhiễm sắc thể toàn diện (tầm soát toàn bộ 23 cặp nhiễm sắc thể) có thể giúp bệnh nhân bị thất bại làm tổ nhiều lần có khả năng có phôi nang có thể có thai”, các nhà nghiên cứu nói một cách khiêm tốn. Kết quả đạt được là rất cao đối với sinh thiết phôi nang trong nghiên cứu này trên những dạng bệnh nhân này, so với tỉ lệ thai diễn tiến mong đợi ban đầu của các nhà nghiên cứu là không vượt quá 11%.

Vì vậy, dựa trên kết quả đầy hứa hẹn của CGH, hai khuynh hướng hiện nay nổi trội là: khuynh hướng chuyển từ chọn phôi giai đoạn phân cắt đến chọn thể cực và giai đoạn phôi nang là mục tiêu của sinh thiết và phân tích; và một khuynh hướng từ sử dụng FISH đến sử dụng CGH là kỹ thuật để tầm soát di truyền cho phôi tiền làm tổ.

BS Nguyễn Khánh Linh

Nguồn: Orgyn.com – CGH for preimplatation embryo selection

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024

Năm 2020

Khách sạn Caravelle Saigon, Chủ nhật 21.1.2024 (9:00 - 11:15)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK