CNSH. Lê Thị Quỳnh – IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Tổng quan
Phôi người thường có xu hướng bất thường về nhiễm sắc thể - NST (lệch bội), với tỉ lệ này gia tăng theo tuổi mẹ. Nguy cơ lệch bội ở phụ nữ từ 26-34 tuổi là 20-31%, tăng lên 34-75% ở phụ nữ từ 35 tuổi trở lên. Những bất thường này là nguyên nhân chính gây thất bại làm tổ, phôi ngừng phát triển, giảm tỉ lệ mang thai tự nhiên và IVF thành công, đồng thời làm tăng tỉ lệ sảy thai ở phụ nữ lớn tuổi.
Để cải thiện kết quả IVF, Xét nghiệm Di truyền Tiền Làm tổ để phát hiện lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy - PGT-A) được sử dụng để sàng lọc phôi trước khi chuyển. PGT-A thường được chỉ định cho phụ nữ lớn tuổi, hoặc những người có tiền sử thất bại làm tổ tái phát hay sảy thai. Kể từ khi các nghiên cứu chỉ ra tác động tiêu cực của sinh thiết phôi giai đoạn phân chia lên tỉ lệ làm tổ, sinh thiết phôi nang đã trở thành kỹ thuật chính của PGT-A. Quy trình này bao gồm lấy một mảnh nhiều tế bào (5-10 tế bào) từ tế bào lá nuôi phôi (Trophectoderm - TE) – phần sẽ phát triển thành nhau thai – để đánh giá thể bội NST của phôi.
Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và phân tích tổng hợp đã chứng minh rằng PGT-A cải thiện kết quả lâm sàng của IVF, đặc biệt ở phụ nữ trên 35 tuổi. Chuyển phôi nang đã sinh thiết dẫn đến tỉ lệ làm tổ và mang thai cao hơn đáng kể so với phôi nang không sinh thiết, đồng thời giảm đáng kể nguy cơ sảy thai trong các chu kỳ IVF.
Tuy nhiên, sinh thiết TE vẫn mang tính xâm lấn và còn những bất ổn liên quan đến tiềm năng phát triển ngắn hạn và dài hạn của phôi, cũng như các kết quả chu sinh. Một số nghiên cứu cho thấy số lượng tế bào TE được sinh thiết có tương quan nghịch với tỉ lệ làm tổ. Mặc dù việc lấy 5-10 tế bào từ TE thường không ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển, nhưng dữ liệu về các tác động lâu dài, như thai chậm phát triển, rối loạn tăng huyết áp khi mang thai hoặc sinh non (do rối loạn chức năng nhau thai), vẫn còn hạn chế.
Các nghiên cứu gần đây đã đưa ra những kết quả trái chiều:
-
Lu và cộng sự (2020) báo cáo rằng sinh thiết TE làm giảm nồng độ β-hCG huyết thanh vào ngày thứ 12 sau chuyển phôi (Embryo Transfer - ET) nhưng không ảnh hưởng đến kết quả chu sinh.
-
Ngược lại, Makhijani và cộng sự (2020) chỉ ra rằng nhóm sinh thiết TE có nguy cơ cao hơn đáng kể phát triển rối loạn tăng huyết áp khi mang thai, mặc dù nguy cơ hạn chế tăng trưởng thai nhi và tỉ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân là tương đương giữa các nhóm.
Nghiên cứu hiện tại này được thiết kế nhằm đánh giá xem sinh thiết TE có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng làm tổ của phôi hay không. Các tác giả tiến hành so sánh nồng độ β-hCG huyết thanh vào ngày thứ 15 sau chuyển phôi và các kết quả chu sinh như tuần sinh và cân nặng khi sinh giữa nhóm phôi được sinh thiết và không sinh thiết, sau các chu kỳ chuyển phôi nang đông lạnh-rã đông dẫn đến trẻ sinh sống.
Vật liệu và Phương pháp
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại Trung tâm IVF Bahçeci Fulya, Thổ Nhĩ Kỳ, từ năm 2016 đến năm 2019, nhằm đánh giá ảnh hưởng của sinh thiết TE đến kết quả thai kỳ.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những phụ nữ đã sinh con sống sau khi chuyển phôi đông lạnh (Frozen Embryo Transfer - FET) có sinh thiết TE cho PGT-A. Để giảm thiểu sai lệch, một nhóm đối chứng được tạo ra từ những phụ nữ trẻ (dưới 37 tuổi) có tiên lượng tốt và được chuyển phôi nang chất lượng tốt chưa sinh thiết. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng làm tổ của phôi đều bị loại trừ.
Trong quy trình lâm sàng, bệnh nhân được kích thích buồng trứng và trưởng thành noãn theo phác đồ tiêu chuẩn. Sau khi thu nhận noãn, ICSI (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection) được thực hiện và phôi được nuôi cấy đến ngày 5 hoặc 6. Đối với nhóm nghiên cứu, 5–10 tế bào TE được sinh thiết bằng laser, sau đó phôi nang được thủy tinh hóa. Tất cả các ca chuyển phôi đều sử dụng phác đồ nhân tạo, với nội mạc tử cung được chuẩn bị kỹ lưỡng và chuyển phôi vào ngày thứ sáu của quá trình bổ sung progesterone.
Kết quả chính của nghiên cứu là nồng độ β-hCG huyết thanh trung bình vào ngày 15 sau chuyển phôi. Các kết quả thứ cấp bao gồm tuổi thai, cân nặng sơ sinh và tỷ lệ trẻ nhẹ cân. Dữ liệu được phân tích bằng SPSS 21.0, sử dụng các kiểm định thống kê phù hợp và điều chỉnh các biến nhiễu như tuổi, BMI, hút thuốc. Giá trị p<0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả
Nghiên cứu này đánh giá 115 chu kỳ PGT-A (nhóm sinh thiết) và 173 chu kỳ không PGT-A (nhóm đối chứng), đều sinh con sống sau FET.
-
Đặc điểm cơ bản: Nhóm sinh thiết có tuổi mẹ cao hơn đáng kể (p<0,001), thời gian vô sinh dài hơn (p=0,006) và tiền sử sảy thai nhiều hơn (p<0,001). Nhóm này cũng có tần suất chẩn đoán giảm dự trữ buồng trứng (Diminished Ovarian Reserve - DOR) cao hơn đáng kể (p<0,001) và vô sinh thứ phát thường xuyên hơn (p<0,001). Ngược lại, BMI và tình trạng sinh con của hai nhóm không khác biệt.
-
Đặc điểm kích thích: Nhóm sinh thiết có thời gian kích thích ngắn hơn (p=0,044) nhưng cần liều gonadotropin cao hơn (p=0,002), dẫn đến số noãn thu được và noãn MII thấp hơn đáng kể (p<0,001).
-
β-hCG huyết thanh: Nồng độ β-hCG huyết thanh trung bình vào ngày thứ 15 sau chuyển phôi ở nhóm sinh thiết thấp hơn so với nhóm không sinh thiết, nhưng không có ý nghĩa thống kê (p=0,336).
Thảo luận
Nghiên cứu này đã làm sáng tỏ những tranh luận về ảnh hưởng của sinh thiết TE đến kết quả thai kỳ. Các tác giả nhận thấy nồng độ β-hCG huyết thanh trung bình vào ngày thứ 15 sau chuyển phôi ở nhóm sinh thiết TE thấp hơn một chút, nhưng không có ý nghĩa thống kê so với nhóm không sinh thiết. Điều này cho thấy việc sinh thiết TE dường như không ảnh hưởng đến khả năng làm tổ của phôi, một phát hiện phù hợp với một số nghiên cứu khác.
Tuy nhiên, kết quả chu sinh lại cho thấy sự khác biệt đáng kể. Trẻ sinh ra từ phôi đã sinh thiết có cân nặng trung bình thấp hơn và nguy cơ nhẹ cân cao hơn so với nhóm đối chứng. Ngược lại, phân tích cho thấy sinh thiết TE không làm tăng nguy cơ sinh non sau khi đã điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu như tuổi mẹ, BMI và tiền sử sinh con.
Sự khác biệt về cân nặng sơ sinh này có thể xuất phát từ việc nhóm sinh thiết có tuổi mẹ cao hơn đáng kể (do chỉ định PGT-A), trong khi nhóm đối chứng được chọn lọc từ những phụ nữ trẻ, có tiên lượng tốt. Những phụ nữ trẻ tuổi thường sinh con nặng cân hơn. Do đó, sự khác biệt về cân nặng sơ sinh có thể là do sự khác biệt về đặc điểm ban đầu của hai nhóm đối tượng, chứ không hẳn là do sinh thiết.
Mặc dù có hạn chế là nghiên cứu hồi cứu và không bao gồm các trường hợp sảy thai, nhưng điểm mạnh của nó là quy mô mẫu lớn và việc lựa chọn nhóm đối chứng cẩn thận giúp giảm thiểu sai lệch. Tóm lại, sinh thiết TE có vẻ an toàn, không làm tăng nguy cơ sinh non, nhưng cần có thêm nghiên cứu để làm rõ hơn về mối liên hệ với cân nặng sơ sinh và các kết cục chu sinh khác.
Kết luận
Sinh thiết TE không ảnh hưởng đến nồng độ β-hCG huyết thanh vào ngày thứ 15 sau chuyển phôi. Tuy nhiên, nó có liên quan đến việc giảm cân nặng trung bình khi sinh và tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân. Mặc dù phân tích thô cho thấy nguy cơ sinh non tăng lên, nhưng sau khi điều chỉnh các yếu tố tiềm ẩn, mối liên quan này không còn có ý nghĩa thống kê.
Từ khoá: xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, sinh thiết tế bào lá nuôi phôi, β-hCG, chuyển phôi đông lạnh, phôi nang, kết quả chu sinh
Tài liệu tham khảo: Özdamar, Ö., Boynukalin, F. K., Gültomruk, M., Yarkiner, Z., Findikli, N., & Bahceci, M. (2023). Impact of trophoectoderm biopsy for preimplantation genetic testing on serum β-hCG levels, time of delivery and birthweight following frozen embryo transfer cycles. Gynecological Endocrinology, 39(1), 2227278.












New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...