Tin chuyên ngành
on Saturday 03-05-2025 1:07pm
Danh mục: Vô sinh & hỗ trợ sinh sản
CNSH. Trần Như Uyên -IVFVH
Các nghiên cứu PGT-A có xu hướng tập trung vào những bệnh nhân có tiên lượng tốt, thường không cho thấy lợi ích rõ ràng?
Nghiên cứu cho rằng các thử nghiệm thường được thực hiện ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt và dựa vào kết quả sau khi chuyển phôi. Số liệu chuyển phôi không tính đến những bệnh nhân không có phôi để chuyển (bệnh nhân đáp ứng kém, không tạo ra nhiều noãn). Khi các kết quả được đưa ra theo “số lần chuyển phôi” thay vì “số lần chọc hút”. Do đó, những trường hợp không có phôi chuyển sẽ không được tính. PGT-A là kỹ thuật sàng lọc đi truyền trước khi chuyển phôi. Do đó, thống kê về kết quả theo “số lần chuyển phôi” sẽ cao hơn so với “số lần chọc hút”.
Munne và cộng sự (2019) xác định cách phân loại phôi truyền thống so sánh với PGT-A ở độ tuổi từ 25-34 tuổi thực hiện trên 661 bệnh nhân. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mang thai diễn tiến (49,3% ở nhóm có PGT-A so với 53,0% ở nhóm đối chứng) (1).
Yan và cộng sự (2021) đã sử dụng NGS cho PGT-A ở độ tuổi từ 20-37 tuổi và cũng không tìm thấy sự khác biệt nào về tỷ lệ sinh sống tích lũy sau tối đa 3 lần chuyển phôi/chuyển nguyên bội trong vòng 1 năm (77,2% so với 81,8%). Tuy nhiên, PGT-A cho tỷ lệ sảy thai thấp hơn so với nhóm đối chứng (8,7% so với 12,6%).
Dựa trên dữ liệu trên và một số nghiên cứu khác, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) tuyên bố rằng cần có các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá về hiệu quả của PGT-A.
PGT-A có thể dẫn đến việc loại bỏ các phôi có khả năng sống
Phôi khảm vẫn có tiềm năng
Phôi khảm có sự kết hợp giữa các tế bào nguyên bội và dị bội:
Có nhiều tranh cãi đối với phôi khảm, đa số các phòng xét nghiệm không khuyến khích chuyển phôi khảm cho đến khi có nhiều nghiên cứu cho thấy những phôi này có thể dẫn đến việc sinh con mà không có bất thường nhiễm sắc thể (NST) tương tự. Nghiên cứu của Manuel Viotti và cộng sự (2021) đã thực hiện chuyển 1000 phôi khảm, phát hiện ra rằng % khảm có liên quan đến tỷ lệ thành công, % khảm mức thấp cho tỷ lệ thai kỳ diễn tiến/ sinh sống tốt hơn. Phôi có mức khảm <50% có kết quả tốt hơn ≥50% (OP/B: 36,1% so với 19,3%). Phôi có bất thường phân đoạn (segmental) cho kết quả tốt hơn nhóm phôi bất thường nhiều hơn 3 NST (OP/B: 43,1% so với 20,8%) (3).
Đặc điểm của phôi khảm xác định qua PGT-A có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê đến kết quả IVF. Những dữ liệu này hỗ trợ việc xây dựng hệ thống ưu tiên chuyển phôi khảm trong lâm sàng, giúp ra quyết định chính xác hơn khi không có phôi bình thường để chuyển.
Phôi bất thường NST vẫn có thể sử dụng
Toàn bộ mục đích của PGT-A là xác định phôi euploid, mosaic và aneuploidy để ưu tiên chuyển phôi. Phôi aneuploidy được cho là không có khả năng làm tổ/ sảy thai. Những phôi này không được khuyến khích chuyển phôi và thường bị loại bỏ.
Vậy chúng có thực sự không hiệu quả không?
Nghiên cứu vào năm 2022 thực hiện chuyển 144 phôi “bất thường”. Trong đó 102 (72,3%) chỉ có 1 hoặc 2 bất thường về NST; 30 (21,3%) có 3 hoặc nhiều hơn 3 bất thường và 9 (6,4%) 'không được chẩn đoán' vì DNA bị thoái hóa, nhưng vẫn bị từ chối chuyển. Việc chuyển phôi bất thường PGT-A dẫn đến 8 ca sinh con sống, 11 ca sảy thai và không có ca chấm dứt thai kỳ tự nguyện nào (4).
Nghiên cứu vào năm 2020 đã chuyển 414 phôi đã được sinh thiết. Có 102 trường hợp chuyển phôi lệch bội, trong đó có 24 trường hợp dẫn đến mang thai, tuy nhiên không có trẻ sinh sống.
Nghiên cứu vào năm 2022 đã phát hiện ra tỷ lệ sảy thai là 86,3% và tỷ lệ thất bại làm tổ, thai diễn tiến là 98%, chỉ có 2% tỷ lệ trẻ sinh sống. (5)
Điều này cho thấy phôi lệch bội cũng có tiềm năng, mặc dù có nguy cơ sảy thai cao. Tuy nhiên, vẫn cần có nhiều nghiên cứu hơn.
Sinh thiết 1 lần không đại diện cho toàn bộ phôi đó
Nghiên cứu vào năm 2023 chỉ ra rằng khoảng 80% các trường hợp lệch bội cho kết quả tương tự sau lần sinh thiết thứ 2, 94% đối với các trường hợp bình thường và chỉ 43% đối với trường hợp phôi khảm. Điều này cho thấy một lần sinh thiết duy nhất chắc chắn là không đủ để đại diện cho toàn bộ phôi. Hơn nữa, những kết quả sinh thiết này là từ Trophectoderm (tế bào lá nuôi –TE) mà không thể thực hiện trên Inner Cell Mass (khối tế bào trong- ICM: là phần phát triển thành thai nhi, không bao giờ được sinh thiết vì sẽ giết chết phôi). Có thể ICM cho kết quả khác so với TE (6).
Một nghiên cứu khác đã tiến hành giải trình tự DNA của tất cả các tế bào trong phôi cho thấy 82% phôi được thử nghiệm là phôi khảm. Ngoài ra, một nghiên cứu khác cũng cho thấy hầu hết các phôi nang đều là phôi khảm. Nghiên cứu vào năm 2023 đã sử dụng mô hình toán học và dự đoán rằng phôi nguyên bội rất hiếm, trong khi phôi dị bội hoặc phôi khảm phổ biến hơn nhiều (7).
PGT-A đắt tiền
Một nhược điểm là chi phí cho các cặp vợ chồng sử dụng PGT-A. Chi phí để đạt được 50% khả năng có phôi nang euploid ở phụ nữ trẻ với AMH tốt dao động từ 15.000 đến 150.000 USD ở phụ nữ lớn tuổi với AMH thấp. Để đạt được 75-90% phôi nang euploid, chi phí dao động từ 16.000 đến 280.000 USD, lên đến 450.000 USD ở phụ nữ lớn tuổi. Một phụ nữ 36-37 tuổi nên dự kiến chi 30.000 USD cho 90% khả năng có phôi euploid. Số tiền đầu tư vào PGT-A có thể hạn chế số chu kỳ IVF mà các cặp vợ chồng có thể chi trả (8).
Kết luận
Mặc dù giả thuyết ban đầu cho rằng sự gia tăng bất thường nhiễm sắc thể theo tuổi bệnh nhân và số lượng sảy thai khi có phôi aneuploidy đã cho rằng PGT-A có hiệu quả, nhưng việc thực hành trong 30 năm qua vẫn chưa chứng minh được tính phù hợp của nó. PGT-A chưa được xác nhận cả về mặt thực nghiệm lẫn lâm sang. Ngược lại, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết này là sai lầm.
Tác động bất lợi đối với kết quả IVF, kết hợp với các nhược điểm đã biết và chưa biết cùng với chi phí cao của PGT-A, ủng hộ việc xem xét lại việc sử dụng, thậm chí không nên sử dụng phương pháp này.
Tài liệu tham khảo:
Nghiên cứu cho rằng các thử nghiệm thường được thực hiện ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt và dựa vào kết quả sau khi chuyển phôi. Số liệu chuyển phôi không tính đến những bệnh nhân không có phôi để chuyển (bệnh nhân đáp ứng kém, không tạo ra nhiều noãn). Khi các kết quả được đưa ra theo “số lần chuyển phôi” thay vì “số lần chọc hút”. Do đó, những trường hợp không có phôi chuyển sẽ không được tính. PGT-A là kỹ thuật sàng lọc đi truyền trước khi chuyển phôi. Do đó, thống kê về kết quả theo “số lần chuyển phôi” sẽ cao hơn so với “số lần chọc hút”.
Munne và cộng sự (2019) xác định cách phân loại phôi truyền thống so sánh với PGT-A ở độ tuổi từ 25-34 tuổi thực hiện trên 661 bệnh nhân. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mang thai diễn tiến (49,3% ở nhóm có PGT-A so với 53,0% ở nhóm đối chứng) (1).
Yan và cộng sự (2021) đã sử dụng NGS cho PGT-A ở độ tuổi từ 20-37 tuổi và cũng không tìm thấy sự khác biệt nào về tỷ lệ sinh sống tích lũy sau tối đa 3 lần chuyển phôi/chuyển nguyên bội trong vòng 1 năm (77,2% so với 81,8%). Tuy nhiên, PGT-A cho tỷ lệ sảy thai thấp hơn so với nhóm đối chứng (8,7% so với 12,6%).
Dựa trên dữ liệu trên và một số nghiên cứu khác, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) tuyên bố rằng cần có các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá về hiệu quả của PGT-A.
PGT-A có thể dẫn đến việc loại bỏ các phôi có khả năng sống
Phôi khảm vẫn có tiềm năng
Phôi khảm có sự kết hợp giữa các tế bào nguyên bội và dị bội:
Có nhiều tranh cãi đối với phôi khảm, đa số các phòng xét nghiệm không khuyến khích chuyển phôi khảm cho đến khi có nhiều nghiên cứu cho thấy những phôi này có thể dẫn đến việc sinh con mà không có bất thường nhiễm sắc thể (NST) tương tự. Nghiên cứu của Manuel Viotti và cộng sự (2021) đã thực hiện chuyển 1000 phôi khảm, phát hiện ra rằng % khảm có liên quan đến tỷ lệ thành công, % khảm mức thấp cho tỷ lệ thai kỳ diễn tiến/ sinh sống tốt hơn. Phôi có mức khảm <50% có kết quả tốt hơn ≥50% (OP/B: 36,1% so với 19,3%). Phôi có bất thường phân đoạn (segmental) cho kết quả tốt hơn nhóm phôi bất thường nhiều hơn 3 NST (OP/B: 43,1% so với 20,8%) (3).
Đặc điểm của phôi khảm xác định qua PGT-A có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê đến kết quả IVF. Những dữ liệu này hỗ trợ việc xây dựng hệ thống ưu tiên chuyển phôi khảm trong lâm sàng, giúp ra quyết định chính xác hơn khi không có phôi bình thường để chuyển.
Phôi bất thường NST vẫn có thể sử dụng
Toàn bộ mục đích của PGT-A là xác định phôi euploid, mosaic và aneuploidy để ưu tiên chuyển phôi. Phôi aneuploidy được cho là không có khả năng làm tổ/ sảy thai. Những phôi này không được khuyến khích chuyển phôi và thường bị loại bỏ.
Vậy chúng có thực sự không hiệu quả không?
Nghiên cứu vào năm 2022 thực hiện chuyển 144 phôi “bất thường”. Trong đó 102 (72,3%) chỉ có 1 hoặc 2 bất thường về NST; 30 (21,3%) có 3 hoặc nhiều hơn 3 bất thường và 9 (6,4%) 'không được chẩn đoán' vì DNA bị thoái hóa, nhưng vẫn bị từ chối chuyển. Việc chuyển phôi bất thường PGT-A dẫn đến 8 ca sinh con sống, 11 ca sảy thai và không có ca chấm dứt thai kỳ tự nguyện nào (4).
Nghiên cứu vào năm 2020 đã chuyển 414 phôi đã được sinh thiết. Có 102 trường hợp chuyển phôi lệch bội, trong đó có 24 trường hợp dẫn đến mang thai, tuy nhiên không có trẻ sinh sống.
Nghiên cứu vào năm 2022 đã phát hiện ra tỷ lệ sảy thai là 86,3% và tỷ lệ thất bại làm tổ, thai diễn tiến là 98%, chỉ có 2% tỷ lệ trẻ sinh sống. (5)
Điều này cho thấy phôi lệch bội cũng có tiềm năng, mặc dù có nguy cơ sảy thai cao. Tuy nhiên, vẫn cần có nhiều nghiên cứu hơn.
Sinh thiết 1 lần không đại diện cho toàn bộ phôi đó
Nghiên cứu vào năm 2023 chỉ ra rằng khoảng 80% các trường hợp lệch bội cho kết quả tương tự sau lần sinh thiết thứ 2, 94% đối với các trường hợp bình thường và chỉ 43% đối với trường hợp phôi khảm. Điều này cho thấy một lần sinh thiết duy nhất chắc chắn là không đủ để đại diện cho toàn bộ phôi. Hơn nữa, những kết quả sinh thiết này là từ Trophectoderm (tế bào lá nuôi –TE) mà không thể thực hiện trên Inner Cell Mass (khối tế bào trong- ICM: là phần phát triển thành thai nhi, không bao giờ được sinh thiết vì sẽ giết chết phôi). Có thể ICM cho kết quả khác so với TE (6).
Một nghiên cứu khác đã tiến hành giải trình tự DNA của tất cả các tế bào trong phôi cho thấy 82% phôi được thử nghiệm là phôi khảm. Ngoài ra, một nghiên cứu khác cũng cho thấy hầu hết các phôi nang đều là phôi khảm. Nghiên cứu vào năm 2023 đã sử dụng mô hình toán học và dự đoán rằng phôi nguyên bội rất hiếm, trong khi phôi dị bội hoặc phôi khảm phổ biến hơn nhiều (7).
PGT-A đắt tiền
Một nhược điểm là chi phí cho các cặp vợ chồng sử dụng PGT-A. Chi phí để đạt được 50% khả năng có phôi nang euploid ở phụ nữ trẻ với AMH tốt dao động từ 15.000 đến 150.000 USD ở phụ nữ lớn tuổi với AMH thấp. Để đạt được 75-90% phôi nang euploid, chi phí dao động từ 16.000 đến 280.000 USD, lên đến 450.000 USD ở phụ nữ lớn tuổi. Một phụ nữ 36-37 tuổi nên dự kiến chi 30.000 USD cho 90% khả năng có phôi euploid. Số tiền đầu tư vào PGT-A có thể hạn chế số chu kỳ IVF mà các cặp vợ chồng có thể chi trả (8).
Kết luận
Mặc dù giả thuyết ban đầu cho rằng sự gia tăng bất thường nhiễm sắc thể theo tuổi bệnh nhân và số lượng sảy thai khi có phôi aneuploidy đã cho rằng PGT-A có hiệu quả, nhưng việc thực hành trong 30 năm qua vẫn chưa chứng minh được tính phù hợp của nó. PGT-A chưa được xác nhận cả về mặt thực nghiệm lẫn lâm sang. Ngược lại, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết này là sai lầm.
Tác động bất lợi đối với kết quả IVF, kết hợp với các nhược điểm đã biết và chưa biết cùng với chi phí cao của PGT-A, ủng hộ việc xem xét lại việc sử dụng, thậm chí không nên sử dụng phương pháp này.
Tài liệu tham khảo:
- Santiago Munne, Ph.D.a,b,c Brian Kaplan et al, Preimplantation genetic testing for aneuploidy versus morphology as selection criteria for single frozen-thawed embryo transfer in good-prognosis patients: a multicenter randomized clinical trial. July 29, 2019.
- Junhao Yan, M.D., Ph.D., et al Live Birth with or without Preimplantation Genetic Testing for Anuploidy, November 24, 2021.
- Manuel Viotti, Ph.D. a,bAndrea R.Victor et al, Using outcome data from one thousand mosaic embryo transfers to formulate an embryo ranking system for clinical use.
- D H Barad, D F Albertini, E Molinari et al, IVF outcomes of embryos wit abnormal PGT-A biopsy previously refused transfer: a prospective cohort study, June 2022.
- Antonio Capalbo, Maurizio Poli, Chaim Jalas et al On the reproductive capabilities of aneuploidy human preimplantation embryos, 2022 Sep 1.
- Robert F Casper PGT-A: Houston, we have a problem.
- Zhenya Yuan, Mu Yuan, Xuemei Song et al Development of an artificial intelligence based model for predicting the euploidy of blastocysts in PGT-A treatments. 2023 Feb 9.
- Stephane Viville, Mohamed Aboulghar PGT-A: what’s it for, what’s wrong? 23 January 2025
Từ khóa: PGT
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
Năm 2020
New World Saigon hotel, Thứ bảy ngày 14 . 6 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK