Tin tức
on Wednesday 23-10-2024 2:28pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Trương Quốc Thịnh - IVF Tâm Anh
Mở đầu
Tế bào nhân thực bao gồm nhiều bào quan con, giúp kiểm soát tốt hơn các quá trình trao đổi chất và điều hòa tế bào. Nhiễm sắc thể và các đại phân tử liên quan được đóng gói trong nhân tế bào, tuy nhiên, nhân không phải là cấu trúc cố định mà sẽ phân rã để thực hiện quá trình phân chia tế bào, và tái lập lại trong kỳ trung gian của chu kỳ tế bào. Đối với phôi người giai đoạn trước khi làm tổ, các phôi bào thường chỉ có một nhân, tuy nhiên hiện tượng hai hoặc nhiều nhân (multinucleation - MN) cũng xuất hiện trong 2-3 chu kỳ phân bào đầu tiên. MN trong phôi bào bị coi là dấu hiệu tiên lượng tiêu cực cho sự phát triển của phôi.
Hình thái nhân, phát hiện đa nhân và tỉ lệ phát sinh đa nhân
Ở giai đoạn hai tế bào, nhân xuất hiện dưới dạng cấu trúc hình tròn được xác định rõ ràng, chứa vật chất dạng hạt mịn và một vài cấu trúc giống như hạch nhân. Công nghệ timelapse (TLT) ghi nhận nhân hình thành ngay sau lần phân chia đầu tiên, mở rộng đến đường kính 18 μm và duy trì đến ngay trước khi diễn ra chu kỳ phân chia thứ hai. Khi có sự xuất hiện đa nhân (hai đến bốn nhân), dù nhỏ hơn và kích thước đa dạng, chúng vẫn có cùng đặc điểm và hình thái. Ở giai đoạn phôi bốn tế bào, các nhân ít nhìn thấy rõ hơn và gần như không thể phân biệt chính xác sau giai đoạn năm tế bào. Phôi giai đoạn phân chia sớm có thể có một hoặc nhiều hoặc toàn bộ phôi bào đa nhân.
Một nghiên cứu từ cuối những năm 1990 dựa trên quan sát tĩnh trên kinh hiển vi cho thấy khoảng 15% trong số hơn 1800 phôi giai đoạn 2 - 4 tế bào vào ngày 2 có hiện tượng đa nhân. Khoảng 50% phôi 2 tế bào có cả hai phôi bào đa nhân, trong khi dưới 8% phôi 4 tế bào có MN ở tất cả các phôi bào. Công nghệ TLT đã cải thiện khả năng giám sát phôi MN hiệu quả hơn bằng cách quan sát lặp lại mỗi 15–30 phút. Một nghiên cứu cho thấy chỉ 27% phôi MN có thể được phát hiện bằng quan sát tĩnh trong khung giờ đánh giá phôi theo Đồng thuận Istanbul. Một nghiên cứu khác cũng xác nhận sự vượt trội của TLT với tỷ lệ phôi MN được phát hiện là 25% so với 5% khi quan sát tĩnh trong 2000 phôi được nghiên cứu. TLT còn cho thấy MN là trạng thái động, với tỷ lệ phôi MN giảm từ 37–42% ở giai đoạn 2 tế bào xuống còn 11–16% ở giai đoạn 4 tế bào.
Cơ chế phát sinh
Hiện tượng MN là kết quả của những cơ chế hoặc hiện tượng: sự hợp nhất của các tế bào đơn nhân, nhân đôi nhiễm sắc thể mà không kèm theo phân chia tế bào, rối loạn chức năng thoi vô sắc trong quá trình phân chia, hoặc sự hình thành màng nhân bị khiếm khuyết.
Công nghệ TLT đã cho phép ghi nhận sự hợp nhất phôi bào và sự thất bại trong phân chia phôi, được gọi chung là bất thường phân chia ngược (reverse cleavage - RC). RC có thể xảy ra ngay từ lần phân bào đầu tiên với tỷ lệ từ 1% đến 5% ở các loại phôi khác nhau. Các cơ chế tế bào của RC vẫn hoàn toàn chưa rõ ràng. Sự hợp nhất tinh trùng - noãn được điều hoà bởi nhiều protein phức tạp, vì vậy có thể khả năng dung hợp của noãn được truyền lại một cách bất thường cho các phôi bào con trong các chu kỳ phân bào đầu tiên.
Cơ chế thứ ba dẫn đến hiện tượng MN liên quan đến chức năng thoi vô sắc. Thoi vô sắc gặp rủi ro đặc biệt trong lần phân chia đầu tiên do quá trình chuyển đổi phức tạp về cấu trúc và chức năng từ kiểu giảm phân sang kiểu nguyên phân, và sự thất bại của các yếu tố điều hoà từ mẹ hoặc cha. Quá trình nhiều bước của cơ chế phân chia tế bào có thể thất bại do hai lý do: (i) hai thoi vô sắc ban đầu có thể giữ khoảng cách quá xa trong quá trình phân cắt, khiến các nhiễm sắc thể của mẹ và cha phân tách hoàn toàn độc lập vào mỗi tế bào con; hoặc (ii) sự không hoàn hảo hoặc sáp nhập không hoàn toàn của hai thoi vô sắc có thể dẫn đến cấu trúc vi ống ba cực hoặc nhiều cực, dẫn đến sự phân chia nhiễm sắc thể hỗn loạn. Kết quả là các phôi bào hình thành từ lần nguyên phân đầu tiên sẽ có tình trạng MN.
Sự xáo trộn trong cơ chế hình thành màng nhân cũng có thể dẫn đến MN. Ở chuột, chromokinesin Kid/kinesin-10 góp phần vào việc đóng gói nhiễm sắc thể trong kỳ sau. Sự mất chức năng của Kid/kinesin-10 dẫn đến sự hình thành các tế bào đa nhân, đặc biệt là ở hợp tử và phôi sớm.
Cuối cùng, MN có thể xảy ra như một hệ quả của quá trình sao chép gen người. Có bằng chứng cho thấy các vùng gen đặc biệt với ít vùng mã hoá có thể được sao chép DNA một phần trong khoảng thời gian hạn hẹp của pha S. Nếu điều này xảy ra, khi các nhiễm sắc tử tách ra ở kỳ sau, DNA sao chép không hoàn chỉnh có thể gây ra stress cơ học, đứt gãy nhiễm sắc thể và các lỗi phân chia, dẫn đến các bất thường trong quá trình hình thành nhân sau nguyên phân.
Kết quả lâm sàng
Giai đoạn phôi phân chia
Vào đầu những năm 2000, một nghiên cứu hệ thống lớn gồm 1395 chu kỳ IVF/ICSI đã làm sáng tỏ một số khía cạnh của phôi MN: (i) MN quan sát được ở 33,6% phôi giai đoạn phân chia, phôi ngày 2 (27,4%) phổ biến hơn ngày 3 (15,1%); (ii) MN làm tăng phân mảnh phôi và giảm số lượng phôi bào ở cả ngày 2 và 3; (iii) tỷ lệ làm tổ giảm khi chuyển phôi MN. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng MN liên quan đến chất lượng phôi kém và giảm tỷ lệ làm tổ cũng như tỷ lệ sinh sống. MN cũng có tương quan với tình trạng dự trữ buồng trứng kém, các yếu tố vô sinh nam, phân mảnh DNA tinh trùng. Nghiên cứu trên TLT, MN làm trì hoãn thời gian phân chia phôi từ khi hai tiền nhân biến mất đến giai đoạn 5 phôi bào, và tăng gấp 2-3 lần tỉ lệ phân chia phôi trực tiếp.
Giai đoạn phôi nang
Một nghiên cứu trên gần 6000 phôi cho thấy tỷ lệ hình thành phôi nang giảm đáng kể ở những phôi có một hoặc nhiều phôi bào MN so với phôi bình thường (lần lượt là 11,4%, 6,5% và 51%). Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng sự hiện diện của hai nhân ở giai đoạn hai tế bào có thể là hiện tượng lành tính và phôi vẫn có thể phát triển bình thường. Tuy nhiên, MN ở các giai đoạn phân chia sau có thể liên quan đến tình trạng phôi đa bội và giảm khả năng làm tổ sau khi chuyển phôi nang.
Kết quả xét nghiệm lệch bội
Các nghiên cứu ban đầu phân tích nhiễm sắc thể cho thấy phôi có MN ở giai đoạn phân chia có nguy cơ cao bất thường lệch bội nhiễm sắc thể so với phôi bình thường. Tuy nhiên, kết quả này chưa chắc chắn do phương pháp phân tích (sử dụng một phôi bào từ phôi ngày 3) và công nghệ phân tích (lai huỳnh quang). Một phân tích theo dõi hơn 1000 phôi nang ngày 5-6 cho thấy MN ở giai đoạn hai và bốn tế bào có tỉ lệ phát sinh phôi lệch bội cao hơn gấp 2 và 6 lần. Ngược lại, trong một phân tích tổng hợp nghiên cứu mối tương quan giữa động học phôi và phôi lệch bội, MN ở giai đoạn hai tế bào không làm gia tăng nguy cơ lệch bội, nhưng gợi ý tiềm năng tiên đoán nếu MN tồn tại ở giai đoạn bốn tế bào. Vì vậy, hiện tại, dữ liệu về sàng lọc nhiễm sắc thể chưa xác định mối liên hệ giữa MN và bất thường lệch bội nhiễm sắc thể của phôi nang.
Kết luận
Sự phát triển của kỹ thuật nuôi cấy dài ngày, theo dõi phôi liên tục TLT và sàng lọc di truyền trước làm tổ phát hiện lệch bội (PGT-A) cung cấp các bằng chứng về hiện tượng MN rõ ràng hơn. MN có thể phát sinh do ba cơ chế chính: hợp nhất phôi bào, thất bại trong phân cắt phôi bào và rối loạn chức năng thoi vô sắc. MN có tương quan đến hình thái phôi kém, bất thường phân chia, phôi phát triển chậm và giảm kết quả lâm sàng. Khoảng 40% phôi giai đoạn phân chia có thể bị ảnh hưởng, nhưng MN là hiện tượng có thể đảo ngược. Nhiều phôi MN vẫn có khả năng phát triển thành phôi nang. Dữ liệu hiện tại không cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng MN có ảnh hưởng đến tỷ lệ nguyên bội nhiễm sắc thể hay khả năng làm tổ của phôi nang.
Nguồn: Embryo multinucleation: detection, possible origins, and implications for treatment - Giovanni Coticchio, Cristina Lagalla, Marilena Taggi, Danilo Cimadomo, Laura Rienzi, Embryo multinucleation: detection, possible origins, and implications for treatment, Human Reproduction, 2024;, deae186, https://doi.org/10.1093/humrep/deae186
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chọn lọc phôi nang chất lượng tốt thông qua hình ảnh timelapse từ giai đoạn nén: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 23-10-2024
Ảnh hưởng của số lượng phôi bào đến kết quả hỗ trợ sinh sản (ART) trong chu kỳ chuyển đơn phôi tươi ngày 3 - Ngày đăng: 23-10-2024
Thủy tinh hóa cực nhanh: Giảm thiểu độc tính của chất bảo vệ đông lạnh và stress áp suất thẩm thấu trong đông lạnh noãn chuột - Ngày đăng: 23-10-2024
Tác động của nuôi cấy phôi đơn bước và chuyển tiếp đến kết cục sản khoa và chu sinh ở những thai kỳ đơn thai - Ngày đăng: 22-10-2024
Tính hữu dụng của phôi có nguồn gốc từ hợp tử 2.1PN dựa trên kết quả lâm sàng và phân tích bộ gen - Ngày đăng: 22-10-2024
Điều trị viêm nội mạc tử cung mãn tính bằng kháng sinh vẫn là một yếu tố nguy cơ gây sẩy thai sớm trong quá trình chuyển phôi đông lạnh nguyên bội sau đó - Ngày đăng: 19-10-2024
Tiềm năng của gel lô hội trong quá trình đông lạnh tinh trùng: một nghiên cứu ở gà trống - Ngày đăng: 19-10-2024
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) - Ngày đăng: 19-10-2024
Cửa sổ làm tổ độc nhất có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong chuyển phôi: Một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 05-10-2024
Tác động của tuổi cha cao lên kết quả các phương pháp hỗ trợ sinh sản (ART) - Ngày đăng: 05-10-2024
Thời gian lưu trữ phôi nang chất lượng tốt trên 5 năm có nguy cơ làm giảm tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 01-10-2024
Hỗ trợ dinh dưỡng đối với loãng xương ở phụ nữ mãn kinh - Ngày đăng: 29-09-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK