Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin chuyên ngành
on Friday 24-08-2007 12:34pm
Viết bởi: Administrator

hrinfert_isci

 

BS. Hồ Mạnh Tường

 


A.R.T. Ở VIỆT NAM – 10 NĂM PHÁT TRIỂN (1997-2007)

Ngày 19/8/1997, Bộ Trưởng Bộ Y tế ký quyết định cho phép Bệnh viện Từ Dũ thực hiện những trường hợp TTTON đầu tiên ở Việt nam. Bệnh viện Từ Dũ, đứng đầu là BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, với những nỗ lực qua nhiều năm cho một quá trình chuẩn bị và thành công trong việc tranh thủ được các nguồn lực từ hợp tác quốc tế đã tạo một sự khởi đầu thật ấn tượng cho sự phát triển của lãnh vực này ở Việt nam.

Với sự hợp tác và hỗ trợ của các chuyên gia người Pháp, các bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành các trường hợp TTTON đầu tiên tại Việt nam vào tháng 8 năm 1997. Gần 9 tháng sau, vào ngày 30/4/1998, 3 em bé từ 3 trường hợp trường hợp TTTON thành công đầu Việt nam đã cùng chào đời vào một ngày. Đến nay, ước tính cả nước Việt nam đã có hơn 4000 em bé ra đời từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong tổng số trên 1 triệu em bé đã ra đời trên thế giới.

Mặc dù đi sau thế giới khỏang 20 năm và sau các nước trong khu vực gần 15 năm, lãnh vực hỗ trợ sinh sản ở Việt nam đã đạt được những bước tiến lớn trong 10 năm qua. Việt nam hiện là nước có số chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Việt nam cũng đang dẫn đầu khu vực về một số kỹ thuật điều trị như: ICSI với tinh phẫu thuật, xin trứng, nuôi trưởng thành trứng trong ống nghiệm, áp dụng phác đồ kích thích buồng trứng mới…  Nhiều đồng nghiệp trong khu vực trong những năm qua đã đến Việt nam để học hỏi kinh nghiệm. Ngày càng có nhiều báo cáo khoa học của các chuyên gia Việt nam về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản xuất hiện tại các hội thảo, hội nghị, tạp chí khoa học của khu vực và trên thế giới.

KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN LÀ GÌ ?

Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) bao gồm các kỹ thuật giúp tăng khả năng sinh sản của người. Theo định nghĩa, ART là những kỹ thuật trong đó có thực hiện đem tế bào trứng người ra khỏi cơ thể. Đây là những kỹ thuật được phát triển cơ bản dựa trên kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) trên người.

Nguyên tắc cơ bản của TTTON là tinh trùng và trứng được đem ra khỏi cơ thể người, sau đó được xử lý và nuôi cấy trong điều kiện phòng thí nghiệm. Quá trình tạo phôi và nuôi cấy phôi trong những ngày đầu cũng diễn ra bên ngòai cơ thể. Sau đó, phôi hình thành sẽ được chọn lựa để cấy trở lại vào buồng tử cung của người vợ. Sự phát triển và làm tổ của phôi, sự phát triển của thai sau đó diễn ra tương tự như những trường hợp có thai tự nhiên.

Vào năm 1978, em bé đầu tiên từ TTTON, Louis Brown, ra đời tại Anh đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của TTTON trên người. Đến nay, TTTON và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nói chung, đã được thực hiện thành công ở hầu hết các nước trên thế giới.


THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM CỔ ĐIỂN VÀ CHUYỂN PHÔI (IVF/ET)


Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có nghĩa là cho trứng và tinh trùng kết hợp với nhau trong phòng thí nghiệm (thay vì trong vòi trứng người phụ nữ). Sau đó phôi hình thành sẽ được chuyển trở lại vào buồng tử cung. Quá trình phát triển của phôi và thai sẽ diễn ra hoàn toàn bình thường trong tử cung người mẹ. Kỹ thuật này được thực hiện thành công trên thế giới lần đầu tiên năm 1978 và thành công lần đầu tiên ở Việt nam năm 1998.

Phác đồ thực hiện TTTON và chuyển phôi hiện nay

- Trong phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn, bệnh nhân được tiêm thuốc kiểm soát nội tiết khoảng 2 tuần. Sau đó, tiêm thuốc FSH để kích buồng trứng (khoảng 2 tuần). Với phác đồ kích thích buồng trứng mới hiện nay, thời gian kích thích buồng trứng giảm từ khỏang 4 tuần xuống còn dưới 2 tuần. Các phác đồ mới này giúp đem lại sự tiện lợi và giảm chi phí điều trị cho bệnh nhân.
- Chọc hút trứng được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm đầu dò âm đạo. Một cây kim chọc hút dài sẽ được đưa vào âm đạo, đâm xuyên qua cùng đồ để đi đến 2 buồng trứng và chọc hút các nang noãn. Dịch chọc hút được sẽ được soi dưới kính hiển vi để tìm trứng.
- Lấy tinh dịch chồng bằng cách thủ dâm hoặc sử dụng bao cao su chuyên dụng. Tinh dịch sẽ được xử lý để tách tinh trùng có chất lượng tốt nhất. Cấy trứng với tinh trùng trong môi trường nuôi cấy ở phòng thí nghiệm.
- Ngày hôm sau, chuyên viên về phôi học sẽ kiểm tra sự thụ tinh của trứng. Trứng thụ tinh sẽ được nuôi cấy tiếp tục và kiểm tra mỗi ngày
- Chọn phôi tốt và chuyển vào buồng tử cung (thường vào ngày 2-3 sau chọc chút trứng, có thể dời đến ngày 5, tùy phác đồ)
- Hai tuần sau khi chuyển phôi, người phụ nữ được lấy máu để thử thai. Nếu kết quả thử thai dương tính, 2-3 tuần sau, sản phụ sẽ được siêu âm để xác định túi thai và tim thai trong buồng tử cung.
- Quá trình theo dõi thai sẽ diễn ra bình thường như những thai kỳ khác.

Tỉ lệ thành công của mỗi chu kỳ điều trị TTTON trung bình trên thế giới hiện nay khoảng 25%-30%. Tỉ lệ này phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, chỉ định điều trị và phác đồ điều trị của từng trung tâm.

Chỉ định


Chỉ định ban đầu của TTTON là tổn thương vòi trứng không có khả năng hồi phục do bệnh lý vùng chậu hoặc do phẫu thuật trước đó. Tuy nhiên, sau đó TTTON được mở rộng cho nhiều chỉ định khác như: vô sinh nam, vô sinh không rõ nguyên nhân, lạc nội mạc tử cung…


TIÊM TINH TRÙNG VÀO BÀO TƯƠNG TRỨNG
(INTRACYTOPLASMIC SPERM INJECTION - ICSI)

Kỹ thuật được ra đời nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ thụ tinh thấp hoặc không thụ tinh khi thực hiện TTTON, do bất thường quá trình thụ tinh hay chất lượng tinh trùng kém. Trong kỹ thuật TTTON cổ điển, để tinh trùng kết hợp tự nhiên với trứng trong môi trường nhân tạo, người ta phải cần đến hàng trăm nghìn hay hàng triệu tinh trùng để thụ tinh được một trứng. Với kỹ thuật ICSI này, người ta có thể tạo một hợp tử hoàn chỉnh bằng một trứng và một tinh trùng duy nhất. Đây được xem là một cuộc cách mạnh trong điều trị vô sinh do nguyên nhân ở nam giới. Kỹ thuật này được thực hiện thành công đầu tiên trên thế giới vào năm 1993 và thành công đầu tiên ở Việt nam năm 1999.

Ở các trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn, kỹ thuật ICSI hiện đang thay thế dần kỹ thuật TTTON cổ điển. Ở một số trung tâm, 100% các chu kỳ HTSS đều thực hiện ICSI. Kỹ thuật này thường cho tỉ lệ thụ tinh cao hơn, làm số phôi có được nhiều hơn, nhiều khả năng chọn lọc được phôi tốt để chuyển vào buồng tử cung, dẫn đến tỉ lệ có thành công cao hơn và tránh được một số trường hợp không có phôi để chuyển do thất bại thụ tinh. Mặc dù có một số quan ngại, cho đến nay, ICSI được xem là một kỹ thuật điều trị an toàn và đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Kỹ thuật ICSI hiện nay có thể thực hiện với tinh trùng tươi hoặc sau trữ lạnh; tinh trùng trong tinh dịch hoặc tinh trùng sinh thiết từ mào tinh và tinh hoàn. Nhờ đó, một số trường hợp các cặp vợ chồng vô sinh do chồng không có tinh trùng, vẫn có có con bằng cách mổ để tìm tinh trùng trong tinh hoàn hoặc mào tinh hoàn
XIN TRỨNG

Xã hội ngày càng phát triển, người phụ nữ càng lập gia đình muộn và tuổi bắt đầu mong con cũng muộn hơn. Sau 30 tuổi, buồng trứng của người phụ nữ bắt đầu suy giảm chức năng và khả năng có thai cũng giảm dần. Sau 35 tuổi khả năng có thai giảm càng nhanh hơn và đến 40 tuổi, hơn 1/3 phụ nữ đã không còn khả năng có thai tự nhiên, chủ yếu do sự suy giảm chức năng buồng trứng. Ngoài ra, một số bệnh lý hoặc các phẫu thuật trên buồng trứng khiến buồng trứng suy giảm hoặc mất hẳn chức năng sớm hơn.

Với kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, các phụ nữ bất hạnh trên có thể mang thai, sinh nở và làm mẹ bằng cách xin trứng của những người hiến tặng. Các phụ nữ hiến tặng trứng sẽ được tiêm thuốc, theo dõi và chọc hút trứng như một trường hợp TTTON bình thường. Sau đó, trứng được hiến tặng sẽ được cho thụ tinh với tinh trùng chồng của người xin trứng. Phôi sau đó sẽ được cấy vào tử cung của người xin trứng. Người phụ nữ này có thể tiếp tục mang thai và sinh đẻ bình thường.

Kỹ thuật này được thực hiện thành công trên thế giới năm 1986 và thành công đầu tiên ở Việt nam năm 2000. Cho đến nay, ở Việt nam đã có hàng nghìn trẻ được ra đời từ hỗ trợ sinh sản bằng trứng hiến tặng, đem lại hạnh phúc cho nhiều gia đình.


KỸ THUẬT ĐÔNG LẠNH VÀ LƯU TRỮ GIAO TỬ VÀ PHÔI

Nhằm lưu giữ khả năng sinh sản và gia tăng hiệu quả của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, người ta đã nghiên cứu đông lạnh và lưu trữ thành công tinh trùng, phôi và trứng người.

Bình thường tinh trùng người chỉ tồn tại được vài ngày sau khi xuất tinh; trứng người tồn tại không quá 1 ngày sau khi rụng trứng; phôi người nếu không phát triển và làm tổ được trong buồng tử cung sẽ tự thoái hóa. Bằng các kỹ thuật đông lạnh, lưu trữ hiện nay, người ta có thể lưu trữ tinh trùng, phôi và trứng người trong nhiều năm. Hiện nay, các kỹ thuật đông lạnh và lưu trữ trên đều có thể thực hiện ở Việt nam.

Gần đây, với việc triển khai thành công phương pháp đông lạnh cực nhanh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa (vitrification) giúp tăng hiệu quả và giảm giá thành điều trị, các chuyên gia ở Việt nam đã đạt đến trình độ thế giới trong công nghệ trữ lạnh phôi và trứng người.


SỨC KHỎE CÁC BÉ SINH RA TỪ CÁC KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN

Người ta ước tính hiện nay đã có hàng triệu người trên thế giới được sinh ra từ KTHTSS. Tại Châu Au, hiện nay có từ 1-5% trẻ sinh ra hàng năm là kết quả của KTHTSS. Ở một số nước Bắc Au, hàng năm có gần 2000 trường hợp KTHTSS trên mỗi triệu dân. Ở nhiều các nước phát triển, chi phí thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được nhà nước tài trợ một phần hoặc toàn phần. KTHTSS hiện là một phân ngành quan trọng trong Sản Phụ khoa hiện đại và một bộ phận không thể thiếu ở hầu hết các trung tâm Sản-Phụ khoa trên thế giới.

Từ gần 30 năm qua, nhiều nghiên cứu qui mô lớn, theo dõi trong thời gian dài, được thực hiện trên thế giới để theo dõi sức khỏe và sự phát triển của các bé sinh ra từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã được thực hiện.. Các báo cáo cho đến nay đều khẳng định sự an toàn của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đây là cơ sở cho sự phát triển ngày càng mạnh của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Ở Việt nam một số nghiên cứu lớn trên hàng trăm bé cũng đã được thực hiện và cho kết quả tương đương với các báo cáo khác trên thế giới. Các nghiên cứu này của Việt nam cũng đã được báo cáo tại các hội nghị khoa học khu vực và thế giới. Tuy nhiên, người ta cũng ghi nhận một số bất thường hoặc bệnh lý có liên quan đến nguyên nhân gây hiếm muộn, vô sinh ở bố mẹ có thể truyền sang cho con.

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK