Tin tức
on Wednesday 29-12-2021 1:59pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Duy Khang - IVF Vạn Hạnh
ICSI giúp mang lại cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam cơ hội sinh sản trong tương lai. ICSI ban đầu được phát triển nhằm điều trị cho những trường hợp vô sinh do yếu tố nam nặng. Mối quan hệ của ICSI với cải thiện tỷ lệ thụ tinh, bất kể đặc điểm tinh trùng, dẫn đến việc ứng dụng rộng rãi kỹ thuật này trong hỗ trợ sinh sản.
Đông lạnh tinh trùng được sử dụng rộng rãi trong các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) do nhiều lợi ích. Chẳng hạn, tinh trùng đông lạnh tránh việc phẫu thuật nhiều lần ở các bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam và cho phép linh động hơn trong việc lập kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, việc đông lạnh và rã đông tinh trùng có liên quan đến bất thường hình dạng, tổn thương DNA và hình thành các gốc tự do. Điều này đặt ra câu hỏi liệu rằng sử dụng tinh trùng đông lạnh có dẫn đến kết quả IVF kém hơn khi so sánh với tinh trùng tươi hay không.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra, tinh trùng tươi và đông lạnh cho kết quả tương đương nhau trong các chu kỳ IVF-ICSI. Nhiều nghiên cứu trong số này được thực hiện ở những bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam hoặc sử dụng tinh trùng thu nhận bằng thủ thuật. Có rất ít dữ liệu so sánh tinh trùng tươi và đông lạnh ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam sử dụng tinh trùng xuất tinh. Một nghiên cứu hồi cứu so sánh tinh trùng xuất tinh tươi và đông lạnh trong các chu kỳ IVF-ICSI ở bệnh nhân tinh trùng bình thường (normozoospermia) không tìm thấy sự khác biệt về kết quả mang thai. Tuy nhiên, nghiên cứu này không kiểm soát đầy đủ chất lượng noãn và bị giới hạn bởi cỡ mẫu.
Trong hỗ trợ sinh sản, chia đôi noãn hiến tặng (noãn từ một người hiến và trong cùng một chu kỳ kích thích buồng trứng, được chuyển đến hai người nhận khác nhau) cung cấp một mô hình độc đáo, giúp kiểm soát chất lượng noãn và tính không đồng nhất của các chu kỳ.
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhân thực hiện IVF với noãn hiến tặng từ 01/2010 – 12/2016. Tất cả chu kỳ được thực hiện chuyển phôi tươi. Hai người nhận noãn của một người hiến được bắt cặp và phân nhóm dựa trên loại tinh trùng, tinh trùng xuất tinh tươi hoặc tinh trùng xuất tinh đông lạnh. Tất cả tinh trùng được sử dụng cho ICSI đều có kết quả phân tích tinh dịch đồ bình thường. Tiêu chí loại: bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam, sử dụng tinh trùng thủ thuật, vô sinh do tử cung. Kết quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ trẻ sinh sống. Kết quả phụ là tỷ lệ thụ tinh, làm tổ, mang thai và sảy thai.
Kết quả: Có 45 cặp bệnh nhân (90 người nhận). Tuổi trung bình người nhận là 43 tuổi ở nhóm tinh trùng tươi và 44 tuổi ở nhóm tinh trùng đông lạnh (P=0,62). Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về chỉ số BMI, độ dày nội mạc tử cung, số lượng phôi chuyển và ngày chuyển phôi.
· Tỷ lệ thụ tinh nhóm tinh trùng tươi cao hơn tinh trùng đông lạnh (74,8% so với 68,6%; P=0,13).
· Tỷ lệ làm tổ cao hơn đối với bệnh nhân sử dụng tinh trùng tươi so với tinh trùng đông lạnh (64% so với 36%; P=0,04).
· Tỷ lệ mang thai ở nhóm tinh trùng tươi cao hơn đông lạnh (76% so với 67%; P=0,49).
· Tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm tinh trùng tươi cao hơn đáng kể (69% so với 47%; P=0,03).
· Tỷ lệ sảy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm tinh trùng tươi so với đông lạnh (5,9% so với 33%, P=0,01).
Bàn luận: Chia đôi noãn hiến tặng sử dụng noãn từ cùng một chu kỳ kích thích buồng trứng của người hiến, chuyển cho hai người nhận khác nhau, mang lại khả năng kiểm soát chất lượng noãn ở mức độ cao nhất có thể. Ngoài ra, việc này cũng kiểm soát sự không đồng nhất liên quan đến các chu kỳ kích thích khác nhau và do đó, cho phép so sánh ít sai lệch hơn giữa những người nhận.
Nghiên cứu này cho thấy nhóm sử dụng tinh trùng tươi có tỷ lệ sinh sống cao hơn và tỷ lệ sảy thai thấp hơn tinh trùng xuất tinh đông lạnh. Qua đó cho thấy, đông lạnh không chỉ làm giảm chất lượng tinh trùng mà còn chỉ ra rằng, ICSI có thể không khắc phục được tình trạng giảm khả năng sinh sản của tinh trùng đông lạnh. Mặc dù tổn thương DNA do đông lạnh có thể gây ra sự khác biệt về kết quả, các đặc điểm của tinh trùng không được đánh giá cụ thể, do đó, vẫn chưa biết quá trình đông lạnh làm giảm chất lượng tinh trùng như thế nào và ảnh hưởng đến sự khác biệt về kết quả.
Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ, hạn chế của những nghiên cứu chia đôi noãn cũng như người nhận noãn phải có nguồn tinh trùng khác nhau để so sánh. Nghiên cứu hồi cứu bị giới hạn trong việc truy cập dữ liệu và theo dõi bệnh nhân. Trong khi nghiên cứu tập trung vào kết quả mang thai, nhưng không đánh giá chất lượng phôi cụ thể. Bên cạnh đó, mẫu tinh dịch sử dụng trong nghiên cứu là bình thường, tuy nhiên, các đặc điểm tinh trùng không được đánh giá cụ thể. Do vậy, nghiên cứu tiếp theo nên khảo sát sâu hơn về các đặc điểm của tinh dịch và mối liên hệ với kết quả mang thai. Một hạn chế khác của nghiên cứu là không rõ phương pháp đông lạnh có giống nhau giữa các mẫu hay không. Do đó, không thể kiếm soát tác động của các chất bảo vệ đông lạnh khác nhau.
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy, các chu kỳ IVF-ICSI sử dụng tinh trùng xuất tinh đông lạnh có kết quả mang thai kém hơn do tỷ lệ sinh sống giảm và tỷ lệ sảy thai cao hơn so với những người sử dụng tinh trùng xuất tinh tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tinh trùng xuất tinh tươi thích hợp hơn trong các chu kỳ IVF-ICSI ở những người vô sinh không do yếu tố nam.
Nguồn: McCarter, K., Setton, R., Chung, A., An, A., Rosenwaks, Z., & Spandorfer, S. Comparison of Fresh and Frozen Ejaculated Sperm in Sibling Oocyte Recipient Cycles. Reproductive BioMedicine Online
ICSI giúp mang lại cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam cơ hội sinh sản trong tương lai. ICSI ban đầu được phát triển nhằm điều trị cho những trường hợp vô sinh do yếu tố nam nặng. Mối quan hệ của ICSI với cải thiện tỷ lệ thụ tinh, bất kể đặc điểm tinh trùng, dẫn đến việc ứng dụng rộng rãi kỹ thuật này trong hỗ trợ sinh sản.
Đông lạnh tinh trùng được sử dụng rộng rãi trong các chu kỳ thụ tinh ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) do nhiều lợi ích. Chẳng hạn, tinh trùng đông lạnh tránh việc phẫu thuật nhiều lần ở các bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam và cho phép linh động hơn trong việc lập kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, việc đông lạnh và rã đông tinh trùng có liên quan đến bất thường hình dạng, tổn thương DNA và hình thành các gốc tự do. Điều này đặt ra câu hỏi liệu rằng sử dụng tinh trùng đông lạnh có dẫn đến kết quả IVF kém hơn khi so sánh với tinh trùng tươi hay không.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra, tinh trùng tươi và đông lạnh cho kết quả tương đương nhau trong các chu kỳ IVF-ICSI. Nhiều nghiên cứu trong số này được thực hiện ở những bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam hoặc sử dụng tinh trùng thu nhận bằng thủ thuật. Có rất ít dữ liệu so sánh tinh trùng tươi và đông lạnh ở những bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam sử dụng tinh trùng xuất tinh. Một nghiên cứu hồi cứu so sánh tinh trùng xuất tinh tươi và đông lạnh trong các chu kỳ IVF-ICSI ở bệnh nhân tinh trùng bình thường (normozoospermia) không tìm thấy sự khác biệt về kết quả mang thai. Tuy nhiên, nghiên cứu này không kiểm soát đầy đủ chất lượng noãn và bị giới hạn bởi cỡ mẫu.
Trong hỗ trợ sinh sản, chia đôi noãn hiến tặng (noãn từ một người hiến và trong cùng một chu kỳ kích thích buồng trứng, được chuyển đến hai người nhận khác nhau) cung cấp một mô hình độc đáo, giúp kiểm soát chất lượng noãn và tính không đồng nhất của các chu kỳ.
Phương pháp: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhân thực hiện IVF với noãn hiến tặng từ 01/2010 – 12/2016. Tất cả chu kỳ được thực hiện chuyển phôi tươi. Hai người nhận noãn của một người hiến được bắt cặp và phân nhóm dựa trên loại tinh trùng, tinh trùng xuất tinh tươi hoặc tinh trùng xuất tinh đông lạnh. Tất cả tinh trùng được sử dụng cho ICSI đều có kết quả phân tích tinh dịch đồ bình thường. Tiêu chí loại: bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam, sử dụng tinh trùng thủ thuật, vô sinh do tử cung. Kết quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ trẻ sinh sống. Kết quả phụ là tỷ lệ thụ tinh, làm tổ, mang thai và sảy thai.
Kết quả: Có 45 cặp bệnh nhân (90 người nhận). Tuổi trung bình người nhận là 43 tuổi ở nhóm tinh trùng tươi và 44 tuổi ở nhóm tinh trùng đông lạnh (P=0,62). Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về chỉ số BMI, độ dày nội mạc tử cung, số lượng phôi chuyển và ngày chuyển phôi.
· Tỷ lệ thụ tinh nhóm tinh trùng tươi cao hơn tinh trùng đông lạnh (74,8% so với 68,6%; P=0,13).
· Tỷ lệ làm tổ cao hơn đối với bệnh nhân sử dụng tinh trùng tươi so với tinh trùng đông lạnh (64% so với 36%; P=0,04).
· Tỷ lệ mang thai ở nhóm tinh trùng tươi cao hơn đông lạnh (76% so với 67%; P=0,49).
· Tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm tinh trùng tươi cao hơn đáng kể (69% so với 47%; P=0,03).
· Tỷ lệ sảy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm tinh trùng tươi so với đông lạnh (5,9% so với 33%, P=0,01).
Bàn luận: Chia đôi noãn hiến tặng sử dụng noãn từ cùng một chu kỳ kích thích buồng trứng của người hiến, chuyển cho hai người nhận khác nhau, mang lại khả năng kiểm soát chất lượng noãn ở mức độ cao nhất có thể. Ngoài ra, việc này cũng kiểm soát sự không đồng nhất liên quan đến các chu kỳ kích thích khác nhau và do đó, cho phép so sánh ít sai lệch hơn giữa những người nhận.
Nghiên cứu này cho thấy nhóm sử dụng tinh trùng tươi có tỷ lệ sinh sống cao hơn và tỷ lệ sảy thai thấp hơn tinh trùng xuất tinh đông lạnh. Qua đó cho thấy, đông lạnh không chỉ làm giảm chất lượng tinh trùng mà còn chỉ ra rằng, ICSI có thể không khắc phục được tình trạng giảm khả năng sinh sản của tinh trùng đông lạnh. Mặc dù tổn thương DNA do đông lạnh có thể gây ra sự khác biệt về kết quả, các đặc điểm của tinh trùng không được đánh giá cụ thể, do đó, vẫn chưa biết quá trình đông lạnh làm giảm chất lượng tinh trùng như thế nào và ảnh hưởng đến sự khác biệt về kết quả.
Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ, hạn chế của những nghiên cứu chia đôi noãn cũng như người nhận noãn phải có nguồn tinh trùng khác nhau để so sánh. Nghiên cứu hồi cứu bị giới hạn trong việc truy cập dữ liệu và theo dõi bệnh nhân. Trong khi nghiên cứu tập trung vào kết quả mang thai, nhưng không đánh giá chất lượng phôi cụ thể. Bên cạnh đó, mẫu tinh dịch sử dụng trong nghiên cứu là bình thường, tuy nhiên, các đặc điểm tinh trùng không được đánh giá cụ thể. Do vậy, nghiên cứu tiếp theo nên khảo sát sâu hơn về các đặc điểm của tinh dịch và mối liên hệ với kết quả mang thai. Một hạn chế khác của nghiên cứu là không rõ phương pháp đông lạnh có giống nhau giữa các mẫu hay không. Do đó, không thể kiếm soát tác động của các chất bảo vệ đông lạnh khác nhau.
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy, các chu kỳ IVF-ICSI sử dụng tinh trùng xuất tinh đông lạnh có kết quả mang thai kém hơn do tỷ lệ sinh sống giảm và tỷ lệ sảy thai cao hơn so với những người sử dụng tinh trùng xuất tinh tươi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tinh trùng xuất tinh tươi thích hợp hơn trong các chu kỳ IVF-ICSI ở những người vô sinh không do yếu tố nam.
Nguồn: McCarter, K., Setton, R., Chung, A., An, A., Rosenwaks, Z., & Spandorfer, S. Comparison of Fresh and Frozen Ejaculated Sperm in Sibling Oocyte Recipient Cycles. Reproductive BioMedicine Online
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ứng dụng lâm sàng của các phương pháp giải trình tự nhằm thực hiện song song xét nghiệm di truyền giúp phát hiện lệch bội và các bệnh lý liên quan đến DNA ti thể trên phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 24-12-2021
Hoạt hoá stress ở lưới nội chất qua trung gian apoptosis gây bởi stress oxi hóa của các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi tình trạng lạc nội mạc tử cung buồng trứng - Ngày đăng: 24-12-2021
Điều trị vô sinh nguyên phát trên bệnh nhân mắc hội chứng Mccune-albright: báo cáo một ca điều trị thụ tinh trong ống nghiệm thành công - Ngày đăng: 21-12-2021
Liệu có thể sử dụng một phác đồ rã đông duy nhất cho tất cả phôi nang đã đông lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá sử dụng các hệ môi trường đông lạnh khác nhau hay không? - Ngày đăng: 20-12-2021
Mối tương quan giữa BMI bất thường và kết quả chuyển phôi đông lạnh: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 20-12-2021
ZEB2, nhân tố điều hoà chính của quá trình chuyển dạng biểu mô – trung mô, một quá trình trung gian cho sự biệt hoá của tế bào lá nuôi phôi - Ngày đăng: 18-12-2021
Sự tăng cường biểu hiện của tace góp phần làm tăng nồng độ sVCAM-I ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 15-12-2021
Chất lượng phôi nang và kết cục chu sinh ở những phụ nữ thực hiện chuyển đơn phôi nang trong chu kỳ đông lạnh - Ngày đăng: 15-12-2021
Phương pháp sử dụng oxy hai pha (5–2%) cải thiện đáng kể tỷ lệ phôi nang hữu dụng và tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 15-12-2021
Phác đồ kích thích buồng trứng ppos sử dụng corifollitropin alfa ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang có hiệu quả ngăn chặn tăng LH sớm và giảm số mũi tiêm so với phác đồ GnRH đối vận - Ngày đăng: 15-12-2021
Kỹ thuật đông lạnh noãn có làm gia tăng tỷ lệ phôi lệch bội? - Ngày đăng: 13-12-2021
Đặc điểm động học phát triển của phôi khảm - Ngày đăng: 13-12-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK