Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 01-12-2020 4:33pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận

Lựa chọn phôi có tiềm năng phát triển và làm tổ tốt nhất là một bước quan trọng trong qui trình IVF. Hiện nay, phôi được đánh giá chủ yếu dựa trên quan sát hình thái phôi bằng kính hiển vi đảo ngược tại một thời điểm nhất định. Bên cạnh đó, một số phương pháp hỗ trợ lựa chọn phôi tiềm năng cũng đã được báo cáo như PGT-A, time-lapse, proteomic… Gần đây, đánh giá chức năng của tế bào cumulus xung quanh noãn đã thu hút được nhiều sự quan tâm và được xem là một công cụ kết hợp không xâm lấn để lựa chọn phôi tiềm năng. Một vài nghiên cứu cho thấy sự biểu hiện gen trên tế bào cumulus là dấu hiệu sinh học tiềm năng để dự đoán khả năng phát triển và làm tổ của phôi. Ứng dụng những lợi điểm của các phương pháp hỗ trợ lựa chọn phôi hiện nay, Nasim Tabibnejad và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá liệu rằng việc kết hợp các thông số động học với sự biểu hiện gen của tế bào cumulus có dự đoán được kết quả điều trị ở bệnh nhân PCOS hay không.



Nghiên cứu tiến cứu trên 547 phôi của 100 bệnh nhân trong đó 50 bệnh nhân PCOS và 50 bệnh nhân ở nhóm chứng. Các thông số động học được phân tích bao gồm thời gian biến mất tiền nhân (tPNf), thời gian phân chia từ 2 đến 8 tế bào (t2-t8), các dạng phân chia bất thường như phân chia trực tiếp, phân chia ngược. Mức độ biểu hiện của 3 gen liên quan đến quá trình phân chia nguyên phân là DIAPH2, NBN và NEK4 được đo trong 100 mẫu tế bào cumulus bằng kỹ thuật real-time PCR cũng được đánh giá.

Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ AMH và số lượng noãn thu nhận được ở bệnh nhân PCOS cao hơn nhóm chứng. Tỉ lệ thai sinh hoá, thai lâm sàng và tỉ lệ sinh sống không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Đánh giá trên các thông số động học hình thái cho thấy có sự khác biệt đáng kể về thông số cc2, cc3, s1 và s2 giữa hai nhóm (P<0,001). Không có sự khác biệt nào được quan sát thấy về đa nhân và phân chia bất thường. Sự biểu hiện gen NBN trên tế bào cumulus ở bệnh nhân PCOS có sự khác biệt với nhóm chứng (p<0,01) trong khi sự biểu hiện của gen DIAPH2 và NEK4 tương đương giữa hai nhóm.

Đánh giá mối tương quan giữa sự biểu hiện gen và động học phôi cho thấy có mối tương quan nghịch giữa sự biểu hiện gen DIAPH2 và NBN với cc3 ở bệnh nhân PCOS, sự biểu hiện gen không có mối tương quan với bất thường phân chia. Đánh giá trên kết quả điều trị cho thấy sự biểu hiện gen NBN cao hơn đáng kể ở những phụ nữ có thai sinh hoá, thai lâm sàng và trẻ sinh sống ở nhóm chứng (P< 0,01). Trong khi đó, gen DIAPH2 và NBN biểu hiện cao đáng kể ở những bệnh nhân PCOS có thai sinh hoá, thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Phân tích hồi quy đa biến chỉ ra rằng thông số tPNf và sự biểu hiện gen DIAPH2 là các yếu tố tiên lượng cho tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sinh sống ở cả 2 nhóm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy một số thông số động học phôi có mối tương quan với sự biểu hiện gen trên tế bào cumulus cũng như kết quả điều trị trong chu kỳ IVF. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng về phương pháp lựa chọn phôi không xâm lấn giúp lựa chọn được phôi chuyển tiềm năng cho bệnh nhân PCOS.

Nguồn: Association between early embryo morphokinetics plus cumulus cell gene expression and assisted reproduction outcomes in polycystic ovary syndrome women. RBMO. 10.1016/j. rbmo.2018.10.010 1472-6483 2018.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK