Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 30-11-2020 1:13pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

 CTV Nguyễn Vĩnh Xuân Phương

Hút thuốc chủ động và thụ động ở mẹ và uống rượu ít hoặc trung bình khi mang thai, có tính đến mức độ phơi nhiễm và kết quả phát triển hoặc hành vi của trẻ, được xem là vấn đề quan trọng đối với cả khía cạnh lâm sàng và sức khỏe cộng đồng. Bài viết này nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc phơi nhiễm trước sinh với thành phần khói thuốc lá và việc uống rượu ít hoặc trung bình khi mang thai lên sự phát triển thần kinh ở trẻ bằng cách xem xét các y văn được công bố gần đây nhất.

Những nghiên cứu liên quan được xác định bằng cách tìm kiếm cơ sở dữ liệu trên Pubmed, Medline và Ebsco. Tổng quan này bao gồm 29 nghiên cứu trên người được phát hành bằng tiếng Anh trên các tạp chí từ năm 2006. Những nghiên cứu được công bố gần đây tiếp tục cho thấy mối liên quan giữa phơi nhiễm với khói thuốc lá, từ việc hút thuốc chủ động và thụ động ở mẹ trong khi mang thai, và sự phát triển tâm thần vận động ở trẻ độc lập với những yếu tố khác, nhưng mối quan hệ này không trực tiếp.

Mối quan hệ này chủ yếu hằng định đối với những thông số đo lường về thành tựu học tập và các vấn đề hành vi cần sự chú ý cao. Các kết quả của những nghiên cứu này về việc phơi nhiễm ít hoặc trung bình với rượu thì không đưa ra được kết luận rõ ràng, nhưng vài nghiên cứu cho thấy uống rượu trong khi mang thai có thể ảnh hưởng có hại lên chỉ số thông minh, sức khỏe tâm thần, trí nhớ và ngôn ngữ hoặc thị lực của trẻ.

Như các nghiên cứu tổng quan đã chỉ ra, lối sống ở mẹ khi mang thai như uống rượu hoặc hút thuốc có thể ảnh hưởng lên sự phát triển thần kinh ở trẻ. Tất cả nỗ lực nên được thực hiện để loại trừ việc phơi nhiễm có hại để bảo đảm sự phát triển phù hợp ở trẻ.
 
Nguồn: Kinga Polańska, Joanna Jurewicz, Wojciech Hanke. Smoking and alcohol drinking during pregnancy as the risk factors for poor child neurodevelopment - A review of epidemiological studies. Int J Occup Med Environ Health. 2015;28(3):419-43. doi: 10.13075/ijomeh.1896.00424.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK