Tin tức
on Monday 31-08-2020 2:39pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh_IVFMD Phú Nhuận
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là công nghệ hỗ trợ sinh sản phổ biến nhất được sử dụng để điều trị vô sinh. Việc lựa chọn phôi để chuyển trong các chu kỳ IVF phụ thuộc vào việc đánh giá hình thái học của các chuyên viên phôi học, bằng cách đánh giá dưới kính hiển vi quang học hoặc gần đây là hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp camera quan sát liên tục (Time-lapse system_TLS). Mặc dù có sự ra đời của TLS nhưng tỷ lệ thành công của IVF vẫn không cải thiện nhiều, do đó cần có các phương pháp thay thế.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng phôi cho kết cục mang thai thành công có sự khác biệt về hệ thống tiết chế và sự trao đổi chất so với phôi không làm tổ. Điều này, cho thấy rằng phân tích các phân tử trong môi trường nuôi cấy phôi có thể hỗ trợ việc lựa chọn phôi đơn lẻ không xâm lấn. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn chưa được áp dụng trên lâm sàng do thiếu các công nghệ sàng lọc có độ nhạy cao thích hợp cần thiết để đánh giá các mẫu giới hạn về thể tích.
Nghiên cứu này đã phát hiện 3 protein hCGβ, IL-8 và TNFα trong môi trường nuôi cấy của các phôi người nuôi cấy đơn lẻ bằng cách sử dụng phổ tổng trở điện hóa. Các cảm biến miễn dịch đo trở lực cho thấy rằng các phôi khi đánh giá về hình thái là không tồn tại (là những phôi bào bị apoptosis, ngừng ở giai đoạn phân chia hay phôi dâu không phát triển lên phôi nang) sẽ có nồng độ IL-8 và TNFα cao hơn, liên quan đến sự phân chia tế bào bất thường và chết tế bào. Quan trọng hơn là nồng độ hCGβ có thể giúp phân biệt các phôi sống (là những phôi phát triển lên giai đoạn phôi nang) giống hệt nhau về mặt hình thái.
Tóm lại, protein hCGβ, IL-8 và TNFα trong môi trường nuôi cấy phôi là các dấu ấn sinh học lựa chọn phôi. Nghiên cứu này đã mở ra một khía cạnh khách quan cho việc lựa chọn phôi tiềm năng làm tổ không xâm lấn, có thể khắc phục những hạn chế lớn của việc lựa chọn phôi dựa trên hình thái học. Trong tương lai nên nghiên cứu việc xác định các dấu ấn sinh học này trong một cỡ mẫu lớn.
Nguồn: Non-invasive molecular assessment of human embryo development and implantation potential, 2020, Biosensors and Bioelectronics, doi: 10.1016/j.bios.2020.112144
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỉ lệ thai lâm sàng của IVF cổ điển cao hơn ICSI ở nhóm bệnh nhân vô sinh không do nam giới: tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp - Ngày đăng: 31-08-2020
Nên thực hiện sinh thiết phôi bào cho PGT-M trước hay sau khi trữ-rã phôi bằng phương pháp thuỷ tinh hoá? - Ngày đăng: 31-08-2020
Một số yếu tố dự đoán khả năng thành công trong chu kỳ IUI - Ngày đăng: 31-08-2020
Mối tương quan giữa đa hình nhiễm sắc thể và kết quả thai sau chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 27-03-2021
HPV là phương pháp được ưa chuộng để tầm soát ung thư cổ tử cung - Ngày đăng: 31-08-2020
Giang mai và thai kỳ - Ngày đăng: 27-03-2021
Chọc hút vào các mùa nào trong năm cho kết quả điều trị tốt nhất? - Ngày đăng: 28-08-2020
Vai trò của hình thái noãn trong sự phát triển và làm tổ của phôi - Ngày đăng: 27-03-2021
Kinh nghiệm của chuyên viên phôi học có ảnh hưởng đến kết quả ICSI hay không? - Ngày đăng: 27-03-2021
Nồng độ oxit nitric và khả năng chống oxy hóa của tinh tương ở nam giới vô sinh có hút thuốc lá - Ngày đăng: 25-08-2020
Ảnh hưởng của hút thuốc lá lên các thông số tinh dịch đồ của nam giới bị vô sinh - Ngày đăng: 25-08-2020
Vô sinh nam do lối sống - Ngày đăng: 25-08-2020
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK